Sản xuất nông nghiệp và lúa gạo ở Thái Lan
Giới thiệu về đất nước và con người Thái Lan
Nguồn gốc tên gọi
Vương quốc Thái Lan (Thailand )
độc lập được hình thành từ thế kỷ 14 vớ tên gọi là Siam (tiếng Việt gọi là Xiêm La) cho
đến ngày 23/6/1939, được đổi thành Thailand (Thái Lan). Sau đó đổi lại
thành Siam (Xiêm La) từ
tháng 11/1945 cho đến năm 1949 lại đổi thành Thailand (Thái Lan).
Từ Siam còn được đánh vần là Siem , Syâm hoặc Syâma, được xác định phát xuất từ tiếng Phạn “Śyâma” có nghĩa là "đen tối"
hoặc "nâu".
Từ Thai ( ไทย ) có nguồn gốc từ từ Tai ( ไท )
có nghĩa đen là “con người” và có nghĩa bóng là "độc lập" trong ngôn
ngữ Thái Lan.
Từ Thailand (Thái Lan) được người Thái
tự hào là vùng “đất của tự do” vì trong thực tế đất nước Thái Lan không bị các
Cường quốc Thực dân Châu Âu xâm chiếm như những nước trong vùng Đông Nam Á
khác.
Tóm tắt lịch sử dựng nước của Thái Lan
Thời tiền
sử
Các bằng chứng khảo cổ cho biết trên đất nước Thái Lan đã có
người tiền sử định cư sinh sống cách nay khoảng 40.000 năm.Tương tự như các khu vực khác ở
Đông Nam Á lục địa, Thái Lan bị ảnh hưởng nặng nề bởi các nền văn hóa và tôn giáo của Ấn Độ , bắt đầu với Vương quốc Phù Nam khoảng
thế kỷ 1 với sự chiếm đóng của Đế quốc Khmer.
Thời kỳ phong kiến độc lập
Trước thế kỷ thứ 12 đã có các tộc người
khác nhau như Tai ,
Mon , Khmer và Vương
quốc người nói tiếng
Mã Lai đã xuất hiện
được thấy qua nhiều địa điểm khảo cổ và các hiện vật nằm rải rác trong suốt
cảnh quan Xiêm La.
Sau sự sụp đổ của Đế quốc Khmer trong
thế kỷ 13, các quốc gia khác nhau phát triển mạnh và dành độc lập từ Đế quốc
Khmer như Lào, Thái, Miến Điện, Thượng Chân Lạp (Campuchia) và Thủy Chân lạp
(ĐBSCL Việt Nam)…
Nước Xiêm La, sau này là Thái Lan theo
truyền thống được xem là Vương quốc Phật giáo của tộc người Sukhothai , được
thành lập vào năm 1238.
Trải qua sự tranh chấp giữa các vương
quốc Phật giáo Sukhothai, Lanna và Lan Xang (Lào) và vương quốc mới của Ayutthaya mới
thành lập vào giữa thế kỷ 14 cho đến đầu thế kỷ thứ 18 Thái Lan mới có lãnh thổ
gần như ngày nay.
Lịch sử Thái Lan hiện đại bắt đầu từ
năm năm 1782, khi triều
đại Chakri dưới thời
vua Rama I Đại đế thành lập thủ đô Bangkok của Thái
Lan.
Bất chấp áp lực Châu Âu, Thái Lan là
nước duy nhất ở Đông Nam Á chưa bao giờ bị chiếm làm thuộc địa nhờ vào chính
sách ngoại giao khôn khéo của các đế chế cận đại của Thái Lan. Kết quả là Thái
Lan vẫn là một quốc gia đệm giữa các bộ phận của khu vực Đông Nam
Á thuộc địa của hai cường quốc thuộc địa, Anh và Pháp.
Tuy nhiên Phương Tây can thiệp buộc Thái lan mất mát phần lãnh thổ rộng lớn ở phía
Đông do Pháp sáp nhập vào Lào và Campuchia, cũng như mất một phần lãnh thổ phía
Nam
ở bán đảo Mã Lai do anh sáp nhập vào Mã Lai trong thế kỷ 19.
Thái Lan hiện đại
Một cuộc cách mạng không đổ máu vào năm 1932 đã dẫn đến một
chế độ Quân chủ lập hiến.
Thái
Lan liên minh với Nhật Bản trong Thế
chiến II.
Thái Lan đã trở thành một hiệp ước đồng minh với Hoa Kỳ vào
năm 1954 sau khi gửi quân tới Hàn Quốc và tham chiến bên cạnh quân đội Mỹ ở
Việt Nam.
Thái Lan là 1 trong 5 nước tham gia thành lập ASEAN (gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines)
vào ngày 8/8/1967 và đến nay ASEAN đã có 11 nước thành viên trong khối ASEAN
đoàn kết và phát triển.
Địa lý Thái Lan
Vị trí địa lý
Vương quốc
Thái Lan nằm trung tâm bán đảo Đông Dương thuộc
vùng Đông Nam Á. Có biên giới chung với
các nước láng giềng (Tổng cộng: 4.863 km) gồm:
-Giáp Lào (1.754 km) phía bắc và phía đông.
Diện tích
-Tổng số: 513.120 km2 (hạng 51).
-Diện tích đất:
510.890 km2.
-Diện tích mặt nước nội địa: 0,4% (2.230 km2).
-Đất canh tác: 27,54%.
-Đất trồng trọt cố định: 6,93%.
-Đất khác: 65,53% (2005).
-Đất chủ động
tưới, tiêu: 64.150 km2
(2003).
Tài nguyên nước
-Tổng số lượng tái tạo tài
nguyên nước :409,9
km3 (1999)
-tổng cộng: 82,75 km3 /năm (2%/2%/95%).
-bình
quân đầu người: 1.288 m3/năm (2000).
-Trung tâm là đồng bằng, cao nguyên
Khorat ở phía đông, núi ở nơi khác.
-Điểm thấp nhất: Vịnh Thái Lan 0 m.
-Điểm
cao nhất: Doi Inthanon 2.576 m.
Nhiệt đới gió mùa, mùa mưa ấm áp, có
mây, gió mùa tây nam (giữa Tháng 5-tháng 9), mùa khô gió mát, có gió mùa đông
bắc (tháng 11 đến giữa tháng 3), phía nam luôn luôn nóng và ẩm ướt.
-2.010
điều tra dân số: 65.479.453 người.
-Mật
độ:132.1 người /km 2 ( hạng 88 ).
-2011
ước tính: 66.720.153 ( hạng 20 ).
-Khoảng 75% dân số là dân tộc Thái , 14% là người gốc Trung Quốc, 3% là
người gốc Malay, còn lại là nhóm dân tộc thiểu số bao
gồm người Mons , người Khmer, người
Việt và các sắc tộc miền núi .
-Ngôn
ngữ chính thức của đất nước là tiếng Thái Lan .
Đơn vị hành chính
Thái Lan được chia thành 76 tỉnh, một thành phố tương đương cấp tỉnh là thủ đô Bangkok và quận Pattaya do Trung ương quản lý.
Mỗi tỉnh được chia thành các huyện và
các huyện được chia thành tiểu huyện (tambons). Đến năm 2006 có 877 huyện và 50 quận của Bangkok . Mỗi tỉnh có thành phố hoặc tỉnh lỵ
tương đương cấp quận hay huyện.
Nền kinh tế Thái Lan
-Tổng
số: 616.783.000.000 USD.
-Bình
quân đầu người: 9.396 USD.
-Tổng
số: 345.649.000.000 USD.
-Bình
quân đầu người: 5.394 USD.
-Sân bay quốc tế: 6 (năm 2012).
-Đường ống:khí 1.889 km; dầu khí 1.099 km
(2010).
-Đường sắt :Tổng
cộng: 4.071 km.
-Đường thủy nội địa: 4.000 km (2011).
-Cảng biển:Tổng số: 363.
Nông nghiệp Thái lan
Theo số liệu thống kê năm 2010
NÔNG
SẢN
|
SỐ
LƯỢNG (Tấn)
|
GIÁ
TRỊ (1.000 USD)
|
Đường mía
|
68.807.800
|
2.259.442
|
Gạo, lúa
|
31.597.200
|
7.913.219
|
Sắn
|
22.005.700
|
2.298.781
|
Ngô
|
4.454.450
|
227.534
|
Cao su tự nhiên
|
3..051.780
|
3.490.733
|
Xoài, măng cụt,
ổi
|
2.550.600
|
1.528.235
|
Dứa
|
1.924.660
|
548.617
|
Chuối
|
1.584.900
|
446.357
|
Dừa
|
1.298.150
|
143.540
|
Dầu cọ
|
1.287.510
|
560.140
|
Rau quả tươi
|
1.097.450
|
206.805
|
Trái cây nhiệt
đới tươi
|
789.000
|
322.442
|
Bắp cải và các
loại rau khác
|
549.877
|
82.285
|
Dưa hấu
|
527.836
|
60.131
|
372.700
|
72.027
|
|
Đậu xanh
|
304.712
|
108.342
|
Trái cây tươi
|
296.800
|
103.593
|
Bưởi (tươi)
|
294.949
|
66.316
|
Nhân cọ dầu
|
285.900
|
73.796
|
Quýt, chanh, tắc
|
280.190
|
69.213
|
Hành củ, hành
khô
|
278.800
|
58.557
|
Ngô tươi
|
260.294
|
107.715
|
Dưa chuột
|
236.955
|
47.046
|
Rễ và Củ khoai
|
226.300
|
38.700
|
Đu đủ
|
211.594
|
60.051
|
Nguồn: FAOSTAT 2012
Nông sản chính của Thái Lan xuất khẩu trong năm
2010-2011
THỰC PHẨM
|
Năm 2010
|
Năm 2011
|
||
Số lượng
(tấn)
|
Giá trị
(1.000 USD)
|
Số lượng
(tấn)
|
Giá trị
(1.000 USD)
|
|
Tổng
số thực phẩm
|
28.368.985
|
26.755
|
33.247.743
|
32.150
|
Thủy
sản
|
1.729.549
|
7.321
|
1.734.829
|
8.168
|
Tôm
|
427.581
|
3.365
|
392.616
|
3.676
|
Cá ngừ
|
58.8.727
|
1.981
|
594.751
|
2.357
|
Cá đóng hộp khác
|
190.681
|
560
|
205.036
|
644
|
Cá đông lạnh
|
325.476
|
643
|
303.853
|
651
|
Mực nang
|
73.638
|
413
|
67.269
|
447
|
Các loại khác
|
123.447
|
359
|
171.303
|
393
|
Ngũ
cốc
|
8.983.099
|
5.625
|
11.121.224
|
6.717
|
Gạo
|
8.939.630
|
5.606
|
10.706.229
|
6.537
|
Các loại khác
|
43.469
|
19
|
414.995
|
180
|
Thịt
|
636.067
|
2.073
|
545.194
|
2.371
|
Gà (được chế biến)
|
427.610
|
1.853
|
441.343
|
2.061
|
Các loại khác
|
208.457
|
219
|
103.851
|
310
|
Trái
cây
|
2.055.885
|
2.117
|
2.163.149
|
2.296
|
Dứa (đóng hộp)
|
550.018
|
552
|
641.185
|
669
|
Nước dứa
|
139.877
|
220
|
146.771
|
227
|
Xoài
|
42.987
|
50
|
59.691
|
56
|
Các loại khác
|
1.323.003
|
1.295
|
1.315.501
|
1.343
|
Thực
vật
|
465.634
|
544
|
559.543
|
654
|
Ngô ngọt (đóng hộp)
|
182.821
|
182
|
184.178
|
190
|
Ngô (Tươi/đóng hộp)
|
45.587
|
49
|
46.092
|
51
|
Các loại khác
|
237.227
|
313
|
329.274
|
413
|
Thực
phẩm khác
|
14.498.751
|
9.075
|
18.858.632
|
20.112
|
Đường
|
4.500.969
|
2.311
|
520.480
|
3.648
|
Đồ uống không cồn
|
400.444
|
409
|
551.900
|
541
|
Gia vị
|
222.151
|
432
|
237.502
|
482
|
Dầu cọ
|
222.000
|
218
|
482.599
|
532
|
Khoai mì (bột/tinh bột)
|
1.764.107
|
836
|
1.918.374
|
963
|
Khoai mì (Pelle /chip)
|
4.273.225
|
866
|
3.731.027
|
985
|
Sản phẩm chăn nuôi
|
988.775
|
417
|
878.463
|
409
|
Thức ăn vật nuôi
|
275.040
|
658
|
305.038
|
715
|
Các loại khác
|
1.852.040
|
2.927
|
4.233.249
|
11.837
|
-Nguồn:
Viện lương thực quốc gia Thái Lan
-Hàng thủy sản
Năm 2011, Thái Lan xuất khẩu
1,7 triệu tấn sản phẩm thủy sản có giá trị 8,2 tỷ USD, tăng 12% từ năm 2011. Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi
nhu cầu tăng cao tại Mỹ và Nhật Bản.
-Gạo
Năm 2011, giá trị xuất khẩu gạo
tăng 17% từ năm 2010, do giá cao hơn trong sự trỗi dậy của thiên tai ảnh hưởng
đến nguồn cung cấp lương thực toàn cầu.
-Sản phẩm chăn nuôi
Trong năm 2011, giá trị xuất
khẩu thịt tăng 14% từ năm 2010. Sau
thảm họa sóng thần năm 2011 và rò rỉ nhà máy hạt nhân, người tiêu dùng Nhật Bản
góp phần quan trọng để yêu cầu gia tăng ở gia cầm và các sản phẩm thịt từ các
nước không bị ảnh hưởng như Thái Lan.
-Sản phẩm trái cây và rau
Năm 2011, giá trị xuất khẩu
trái cây và thực vật tăng 8% và 20% theo tương ứng. Mức tăng trưởng này tập trung vào các
loại trái cây và rau quả chế biến ngành công nghiệp và thúc đẩy bởi sự tăng
trưởng nhu cầu từ Mỹ và EU.
-Đường
Năm 2011, Thái Lan xuất khẩu
6,5 triệu tấn đường, tăng 58% trong 5 năm, phản ánh nhu cầu gia tăng toàn cầu và
nguồn cung giảm từ Ấn Độ, do hạn hán nghiêm trọng trong nước.
-Gia vị và Thành phần thực phẩm
Thế mạnh của Thái Lan trong chế
biến thực phẩm cũng đã đưa đất nước đến nổi bật toàn cầu trong ngành công
nghiệp gia vị và thành phần thực phẩm. Việc
cung cấp nguyên liệu dồi dào và các thành phần sản xuất và tiềm năng để phát
triển kỹ năng địa phương để sản xuất các sản phẩm thực phẩm đặc sản như gia vị
làm cho các quốc gia một điểm đến hấp dẫn cho đầu tư.
Sản xuất lúa gạo ở Thái Lan
Lúa gạo sản
xuất tại Thái Lan góp phần đáng kể của nền kinh tế và lực lượng lao động. Thái Lan có thế
mạnh về truyền thống sản xuất lúa gạo. Đất
trồng lúa của Thái Lan đứng hàng thứ 5 trên thế giới và là nước xuất khẩu gạo
số 1 thế giới.
Thái Lan có kế hoạch để tiếp tục tăng
đất trồng lúa thêm 500.000 ha để đạt 9.200.000 ha vùng trồng lúa. Bộ Nông nghiệp Thái Lan dự kiến sẽ sản xuất trên 30 triệu tấn
gạo kể từ năm 2008.
Phần lớn giống lúa được sản xuất ở Thái
Lan là giống
Jasmine, có chất lượng gạo cao. Tuy nhiên giống lúa mùa Hương Lài
được trồng với tỷ lệ thấp hơn nhưng giá gạo gấp đôi và cạnh tranh mạnh trên thị
trường gạo chất lượng cao trên toàn cầu.
Lịch sử phát triển của lúa gạo Thái lan.
Trước thập kỷ 1960
Cho đến khoảng những năm 1960, sản xuất
lúa gạo ở Thái Lan bao gồm nhiều nông dân
sản xuất nhỏ với năng suất và sản lượng lúa khiêm tốn nhằm tự cung tự cấp lương
thực cho hộ gia đình nhằm vào sinh kế nông nghiệp. Đồng bằng sông Chao
Phraya là trung
tâm sản xuất lúa gạo vào thời điểm đó. Nông nghiệp gồm một phần lớn tổng sản
lượng của công dân Thái Lan sản xuất nhỏ làm ra từ các nông trại 1-2 ha.
Chính phủ bảo vệ quyền lợi cho nông dân
sản xuất nhỏ, có những chính sách hạn chế quyền lợi của địa chủ và quí tộc, hạn
chế việc tích tụ ruộng đất về tay những người dân thành thị không trực canh. Điều
này dẫn đến Thái Lan là nước sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự cung tự cấp, sản
xuất lúa hàng hóa chưa phát triển và đầu tư khoa học kỹ thuật vào sản xuất cây
lúa còn hạn chế.
Sau thập kỷ 1960
Khi Châu Âu bắt đầu đưa ra các chính
sách nông nghiệp kích thích sản xuất trên nhiều vấn đề bao gồm cả hỗ trợ giá, Chính
phủ Thái Lan đã bắt đầu chú trọng vào phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa
dựa vào tiềm năng to lớn về ngành công nghiệp lúa gạo. Thái Lan đã chuyển sang
chính sách thương mại hóa trong sản xuất lúa gạo, phát triển đầu tư khoa học kỹ
thuật, công nghệ chế biến và cho phép tích tụ ruộng đất để sản xuất cây lúa có
hiệu quả hơn.
Chính sách của Chính phủ Thái Lan
Chính phủ muốn thúc đẩy phát triển đô
thị và một trong những cách thực hiện điều này bằng cách đánh thuế các ngành
lúa gạo và sử dụng tiền ở các thành phố lớn. Trong
thực tế, trong 1953, thuế đối với lúa gạo chiếm 32% doanh thu của chính phủ. Chính phủ thiết lập một mức giá độc
quyền về xuất khẩu, tăng doanh thu thuế và giữ giá trong nước thấp cho người
tiêu dùng Thái Lan. Hiệu quả tổng
thể là một loại chuyển giao thu nhập từ nông dân để hổ trợ cho chính phủ và người tiêu
dùng đô thị (người mua gạo). Những
chính sách lớn về gạo gọi là "gạo cao cấp", được sử dụng cho đến
năm 1985 khi Chính phủ đã đưa vào áp lực chính trị nhằm tạo cho người nông dân
trực tiếp sản xuất lúa được hưởng lợi do thương mại hóa lúa gạo phát triển.
Chính phủ Thái Lan đã khuyến khích mạnh
mẽ để tăng sản xuất lúa gạo. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thủy lợi, và phát triển
nhiều dự án tăng chất lượng gạo để đem lại nhiều lợi nhuận cho nông dân. Ngân hàng Thế giới cũng cung cấp tài chính cho các đập nước, kênh mương và các cơ sở hạ tầng trong dự án Chaophraya. Những chính sách này đã giúp đất trồng
lúa tăng từ 35.000.000 “rai” (1,600 m2 = 40 m × 40
m) đất lúa từ năm
1950 lên 59.000.000 rai trong năm 1980. Từ năm 1961-2007 sản
lượng gạo Thái Lan đã tăng lên gấp 3 lần trong khi diện tích chỉ tăng khoảng
1,8 lần.
Tăng cường sản xuất.
Một phần lớn sản lượng gạo tăng nhanh
chóng ở Thái Lan từ phía đông bắc của nước này. Trong khi trong quá khứ, miền
trung Thái Lan là nơi sản xuất lúa gạo chủ yếu, vùng đông bắc nhanh chóng đuổi
kịp một phần là do hệ thống đường bộ mới giữa đông bắc Thái Lan về các thành
phố và vận chuyển tập trung ra bờ biển.
Các làng sản xuất lúa gạo cũng được
thay đổi tập quán đáng kể, nông dân từ chổ ăn chơi theo thói quen cũ cũng
chuyển sang lao động cật lực hơn. Cơ giới hóa thay thế cho sức người và trâu
bò. Công nghệ nông nghiệp mới cũng đã tiếp cận đến vùng nông thôn hẻo lánh.
Các cuộc cách mạng xanh đã bắt đầu lan rộng giữa các ngành nông nghiệp của thế giới. Nông
dân trồng lúa và các thương gia Thái Lan đã lợi dụng các giống lúa mới, phân
bón, và các tiến bộ công nghệ khác.
Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) đã phổ biến kiến thức, công
nghệ, giống lúa mới, và các thông tin khác để sản xuất lúa gạo ở Thái Lan . Từ năm 1950 đến năm 1970 năng lúa trên
một đơn vị đất tăng gần 50%.
Mặt trái của chính sách hiện đại hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến nông dân
Trong khi tất cả những tiến bộ này đã
giúp cải thiện tổng thể của sản xuất lúa gạo ở Thái Lan, nhiều nông dân lại tồi tệ hơn. Họ không thể giữ được đất đai của họ
mà trở thành những kẻ thuê nhà trọ để sống. Nông dân mất đất sản xuất do làm ăn
kém hiệu quả và trở thành người làm thuê cho các chủ hộ có nhiều ruộng đất, máy
móc. Sự phân hóa giàu nghèo ở nông thôn Thái Lan hiện nay rất khắc nghiệt.
Người nông dân có vốn và có kỹ thuật
hưởng nhiều lợi nhuận, còn nông dân mất đất đổ về các thành thị để mưu sinh. Tạo ra vấn đề nan giải của làn sóng di dân từ nông thôn về các thành thị.
Tầm quan trọng của lúa gạo ở Thái Lan
Gạo có vai trò quan trọng trong xã hội
Thái Lan từ thức ăn hàng ngày để sinh sống và làm việc. Nghề
trồng lúa sử dụng hơn ½ diện tích đất canh tác và hơn 1/2 lực lượng lao
động ở Thái Lan. Gạo là một trong
các loại thực phẩm chính và các nguồn dinh dưỡng đối với hầu hết các công dân
Thái Lan. Gạo cũng là thành phần
chính của kim ngạch xuất khẩu ở Thái Lan. Ngành
công nghiệp lúa gạo của Thái Lan cũng phải đối mặt với một mối đe dọa lớn.
Theo Setboonsarng một chuyên gia kinh
tế Thái Lan cho biết có ba mối đe dọa hàng đầu:
1-Gia tăng cạnh tranh trong thị trường
quốc tế,
2-Phát triển cạnh tranh với các hoạt
động kinh tế khác tăng chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí lao động và suy
thoái rừng
3-Các điều kiện sinh thái biến đổi.
Nghiên cứu ở Thái Lan cho biết trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế, nó trở nên khó khăn hơn cho Thái Lan để giữ lợi
thế cạnh tranh và lợi nhuận sản xuất lúa gạo của mình. Đối với các mối đe dọa
thứ hai, hiện đại hóa của Thái Lan đã dẫn đến sự gia tăng sự giàu có và chi phí
lao động, làm cho nó đắt tiền hơn so với nông dân trồng lúa sử dụng lao động thủ
công giá rẻ. Thứ ba, số lượng lớn
đất được sử dụng cho trồng lúa có thể có tác động xấu lâu dài về chất lượng của
đất.
Truyền Thống lễ hội làm mùa ở Thái Lan
Làm lễ cầu mưa là phổ biến đối với nông
dân trồng lúa ở Thái Lan . Một buổi lễ như vậy xảy ra tại Bangkok liên quan đến Lễ cày Hoàng gia.
Khi Hoàng tử Thái Lan đi vòng quanh theo chiều kim đồng hồ tại quảng trường Grand Palace
để rải các hạt giống cầu mưa.
Một truyền thống khác phổ biến ở miền
trung Thái Lan là một đám rước Cát. Điều
này liên quan đến dân làng mang một con mèo và ném nước vào nó, do niềm tin
rằng một con mèo "khóc" mang đến một vụ lúa màu mỡ.
Lễ hội làm mùa ở Thái Lan là phong tục lâu đời, nó được cải biên và phát triển rộng rãi ở khắp các cộng đồng nông nghiệp ở nông thôn.
Lễ hội làm mùa ở Thái Lan là phong tục lâu đời, nó được cải biên và phát triển rộng rãi ở khắp các cộng đồng nông nghiệp ở nông thôn.
Đối thủ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu gạo
Thái Lan đã vào các thời điểm được coi
là gặp đối thủ cạnh tranh gạo với Việt Nam, Miến Điện, Lào và Cam-pu-chia . Mục
đích là để kiểm soát sản xuất và thiết lập mức giá tương tự như OPEC kiểm
soát sản xuất dầu. Thái Lan thậm
chí đã gửi một đề nghị với các nước khác cho tổ chức nhưng nó đã được rút lại
trong năm 2008. Nhiều nhà phân tích tin rằng một tổ chức định giá sẽ không làm
việc do không có khả năng hợp tác giữa tất cả các quốc gia và thiếu kiểm soát
sản xuất của nông dân. Thái Lan
đang xem xét việc tạo ra một tổ chức diễn đàn quốc tế để thảo luận về nguồn
cung cấp và sản lượng gạo. Noppadon Pattama , Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan, muốn kêu gọi cho diễn đàn Hội đồng về Hợp tác Thương mại gạo và được lập kế hoạch, đến
tháng 5 năm 2008, mời Trung
Quốc , Ấn Độ , Pakistan , Campuchia, Miến Điện, và Việt Nam. Pattama cũng cho biết, diễn đàn quốc
tế tiềm năng mới sẽ không sao chép bất kỳ công việc được thực hiện bởi Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế IRRI. Viện được thành lập vào năm 1960
", ... cải thiện sức khỏe của nông dân trồng lúa và người tiêu dùng, và
đảm bảo rằng gạo sản xuất bền vững về môi trường " trong khu vực Đông Nam
Á.
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Tài liệu tham khảo