Tình hình sản xuất lúa gạo ở Indonesia
Khái quát về đất nước và con người Indonesia
Indonesia, tên đầy đủ: Cộng hòa Indonesia , là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và Châu
Đại Dương. Indonesia
là một quần đảo với khoảng17.508
hòn đảo lớn, nhỏ, có 33 tỉnh với hơn 238 triệu dân, và là nước đông
dân đứng hàng thứ tư trên thế giới. Indonesia là
một nước Cộng hòa, với cơ quan lập pháp và tổng thống được bầu. Thủ đô và cũng là Thành phố lớn nhất là Jakarta .
Indonesia giáp biên giới với các nước: Papua New
Guinea , Đông Timor, và Malaysia . Các nước láng giềng không chung biên
giới khác bao gồm Singapore , Việt
Nam , Úc và lãnh thổ trực thuộc của Ấn Độ là quần đảo Andaman và quần đảo Nicobar
Islands .
Quần đảo Indonesia đã là một khu vực
thương mại quan trọng ít nhất từ thế kỷ thứ 7, khi các tộc người Srivijaya và sau đó là Majapahit giao dịch với Trung Quốc và Ấn
Độ. Người Indonesia dần dần hấp
thu các nền văn hóa, tôn giáo và chính trị nước ngoài từ đầu thế kỷ thứ I sau
Công nguyên, và các Vương quốc Ấn Độ giáo và Phật giáo phát triển mạnh mẽ ở Indonesia
trong nhiều thế kỷ sau đó.
Lịch sử Indonesia đã bị ảnh hưởng bởi các
cường quốc nước ngoài thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ. Thương nhân người Hồi giáo truyền bá
đạo Hồi và các cường quốc Châu Âu đã truyền bá Kitô giáo và họ chiến đấu với
nhau đẩ dành độc quyền thương mại trong quốc đảo “Gia vị” (Spice) Maluku trong thời đại khám phá (Age of Discovery).
Sau ba 3,5 thế kỷ bị đô hộ bởi thực
dân Hà Lan , Indonesia mới dành được độc lập sau Thế chiến thứ
II. Lịch sử Indonesia kể từ
sau khi hỗn loạn sau thế chiến đã gặp phải nhiều thách thức như thiên tai, tham nhũng, ly khai, cực đoan tôn giáo…Quá trình dân chủ
hóa tạo sự thay đổi kinh tế nhanh chóng trong vài thập kỷ gần đây.
Trên khắp quần đảo Indonesia bao gồm nhiều nhóm dân tộc, ngôn ngữ,
và tôn giáo riêng biệt. Tiếng
Java là lớn nhất và chi
phối chính trị -dân tộc. Indonesiađã phát triển một bản sắc văn hóa chung được
xác định bởi một ngôn ngữ quốc gia, dân tộc đa dạng, đa nguyên tôn giáo trong
một dân số đa số Hồi giáo, và lịch sử của chủ nghĩa thực dân và cuộc nổi loạn
chống lại nó.
Bảng sau đây nêu lên một số thông tin quan trọng về đất nước
và con người Indonesia :
Capital (và là thành phố lớn nhất)
|
||
Ngôn ngữ
chính thức (s)
|
Tiếng Indonesia
|
|
Dân tộc (2000)
|
-Người Java
40,6%
-Sundanese 15% -Madurese 3,3% -Minangkabau 2,7% -Betawi 2,4% -Bugis 2,4% -Banten 2% -Banjar 1,7% -Dân tộc khác hoặc không xác định 29,9% |
|
-
|
17 tháng 8,
1945
|
|
-
|
27 tháng 12 năm
1949
|
|
Diện tích
|
||
-
|
1.919.440 km 2 ( 15 ) (735.355 sq mi )
|
|
-
|
4,85
|
|
-
|
2011 ước tính
|
237424363 (hạng 4 )
|
-
|
2.011 điều tra
dân số
|
237424363
|
-
|
Mật độ
|
123.76/km2 (hạng 84 )
323.05/sq mi |
2011 ước tính
|
||
-
|
Tổng số
|
1,124 nghìn tỷ
USD ( hạng 15 )
|
-
|
Bình quân đầu
người
|
$ 4.666 ( hạng
122 )
|
2011 ước tính
|
||
-
|
Tổng số
|
$ 845,680 tỷ
USD ( hạng 17 )
|
-
|
Bình quân đầu
người
|
$ 3.508 ( hạng 107 )
|
36,8 (trung
bình)
|
||
▲ 0,617 (trung
bình) ( hạng 124 )
|
||
Tiền tệ
|
Sản xuất Nông nghiệp ở Indonesia
Bản đồ nông nghiệp của Indonesia
Môi trường nông nghiệp ở Indonesia phần lớn được chia theo
địa lý và độ cao, thâm canh sản xuất cây lương thực ở trên các hòn đảo lớn (Java,
Bali, Lombok và Madura) trong khi có nhiều hệ thống cây trồng lâu năm như cọ dầu,
cao su, ca cao, cà phê, chè và mía đường chiếm ưu thế trên các hòn đảo ngoài
bên ngoài như Sumatra, Kalimantan Sulawesi, và Papua. Khả năng sinh sản đất tự nhiên là cao
nhất trên các hòn đảo vòng trong, trong khi đất axit thấp chiếm ưu thế trên các
hòn đảo bên ngoài. Đây là trầm
tích của vật liệu đá mẹ đã phong hóa qua nhiều thiên niên kỷ trong điều kiện
khí hậu nhiệt đới.
Các nhà khoa học IRRI cho rằng cây lúa đã được trồng đầu tiên tại Indonesia
khoảng 1500 năm TCN và đã được trồng
liên tục trong 3.500 năm qua.
Nguồn gốc núi lửa của quần đảo cung cấp khu vực rộng lớn đất
đai màu mỡ có hỗ trợ cả rừng mưa nhiệt đới dày đặc và cây nông nghiệp. Lượng mưa trung bình hàng năm trong cả
nước là khoảng 3.175 mm (125 inch), nhưng có thể vượt quá 6.100 mm (240 inch) ở
vùng cao nguyên miền núi. Sự kết
hợp của lượng mưa dồi dào và đất đai màu mỡ làm cho nhiều khu vực của hòn đảo
lý tưởng thích hợp cho canh tác cây nông nghiệp.
Tổng số đất nông nghiệp trong năm 2010 được Chính phủ
Indonesia (BPS) ước tính khoảng 40,7 triệu ha, hoặc 22% tổng diện tích đất ở
trong nước. Các cây trồng chủ yếu
tại Indonesia
bao gồm lúa, cọ dầu, mía, sắn, dừa, bắp, chuối, cao su, xoài, cam, ớt, khoai
lang, đậu nành, và đậu phộng.
Bảng sau đây cho thấy Diện tích thu hoạch (ha), năng suất
(kg/ha) và sản lượng (tấn) của các cây trồng chính ở Indonesia năm 2010:
Cây trồng
|
Diện tích thu hoạch
(Ha)
|
Năng suất
(kg / ha)
|
Sản lượng
(tấn)
|
|||
Đậu Areca
|
135.400
|
Im
|
466,0
|
Fc
|
63.100
|
Im
|
Chuối
|
98.000
|
F
|
59.332,4
|
Fc
|
5.814.580
|
|
Đậu hạt , khô
|
258.529
|
1.129,8
|
Fc
|
292.084
|
||
Đậu, tươi
|
165.400
|
Im
|
5.347,6
|
Fc
|
884.500
|
Im
|
Hạt điều, vỏ
|
309.900
|
Im
|
562,4
|
Fc
|
174.300
|
Im
|
Sắn
|
1.182.600
|
20.216,9
|
Fc
|
23.908.500
|
||
Ớt và ớt tươi
|
237.520
|
5.609,5
|
Fc
|
1.332.360
|
||
Đinh hương
|
274.800
|
Im
|
207,4
|
Fc
|
57.000
|
Im
|
Hạt ca cao
|
1.026.000
|
*
|
789,6
|
Fc
|
810.100
|
Im
|
Dừa
|
3.080.700
|
Im
|
6.704,8
|
Fc
|
20.655.400
|
Im
|
Cà phê, tươi
|
1.166.000
|
*
|
687,0
|
Fc
|
801.000
|
*
|
Trái cây tươi
|
117.000
|
Im
|
10.290,6
|
Fc
|
1.204.000
|
Im
|
Trái cây
nhiệt đới tươi
|
209.300
|
Im
|
10.478,3
|
Fc
|
2.193.100
|
Im
|
Lạc, vỏ
|
620.828
|
1.255,8
|
Fc
|
779.607
|
||
Trái cây Kapok
|
138.500
|
Im
|
1.695,3
|
Fc
|
234.800
|
Im
|
Ngô
|
4.143.250
|
4.432,4
|
Fc
|
18.364.400
|
||
Ngô, tươi
|
107.100
|
Im
|
3.155,0
|
Fc
|
337.900
|
Im
|
Xoài, măng
cụt, ổi
|
135.000
|
F
|
9.729,9
|
Fc
|
1.313.540
|
|
Cao su tự
nhiên
|
3.064.600
|
Im
|
909,8
|
Fc
|
2.788.300
|
Im
|
Các loại hạt,
nes
|
210.600
|
Im
|
592,1
|
Fc
|
124.700
|
Im
|
Dầu cọ quả
|
5.000.000
|
F
|
17.200,0
|
Fc
|
86.000.000
|
F
|
Hành củ, hành
khô
|
109.468
|
9.575,7
|
Fc
|
1.048.230
|
||
Hạt tiêu (Piper
spp.)
|
103.900
|
Im
|
541,9
|
Fc
|
56.300
|
Im
|
Lúa
|
13.244.200
|
5.014,4
|
Fc
|
66.411.500
|
||
Đậu nành
|
661.711
|
1.372,4
|
Fc
|
908.111
|
||
Đường mía
|
420.000
|
F
|
63.095,2
|
Fc
|
26.500.000
|
F
|
Khoai lang
|
181.048
|
11.327,4
|
Fc
|
2.050.810
|
||
Trà
|
107.800
|
*
|
1.391,5
|
Fc
|
150.000
|
F
|
Lá thuốc lá, thô
|
251.300
|
Im
|
776,0
|
Fc
|
195.000
|
Im
|
Ngũ cốc (quy gạo
(Total)
|
17.387.450
|
A
|
3.603,8
|
Fc
|
62.660.870
|
A
|
Ngũ cốc, Tổng
số
|
17.387.450
|
A
|
4.875,7
|
Fc
|
84.775.900
|
A
|
Hạt thô (Tổng
số)
|
4.143.250
|
A
|
4.432,4
|
Fc
|
18.364.400
|
A
|
Cây lấy sợi
(Tổng số)
|
165.120
|
A
|
564,8
|
Fc
|
93.253
|
A
|
Dưa các loại
(Tổng)
|
662.800
|
A
|
22.431,7
|
Fc
|
14.867.762
|
A
|
Bánh dầu
(Tổng số)
|
9.524.739
|
A
|
561,6
|
Fc
|
5.348.621
|
A
|
Dầu thực vật
thô (Total)
|
9.531.239
|
A
|
2.830,4
|
Fc
|
26.977.326
|
A
|
Rễ và Củ,
Tổng số)
|
1.497.156
|
A
|
18.308,1
|
Fc
|
27.410.090
|
A
|
Rau (Total)
|
1.091.995
|
A
|
8.778,9
|
Fc
|
9.586.496
|
A
|
Ghi chú: * = con số không chính thức | [ ] = chính thức dữ liệu | A = Có
thể bao gồm dữ liệu chính thức, bán chính thức hoặc ước tính | F = FAO ước tính
| Fc = Tính toán dữ liệu | Im = FAO dữ liệu dựa trên các khoản tính phương pháp
luận | M = dữ liệu không có sẵn
Nguồn: FAOSTAT © FAO Phòng Thống kê 2012 | 28 năm
2012
Bảng sau đây cho thấy thực phẩm nông nghiệp nhập khẩu năm
2009 tại Indonesea :
Hạng
|
Hàng hóa
|
Số lượng
(tấn)
|
Giá trị
(1000 USD)
|
Giá trị đơn vị
(USD/ tấn)
|
1
|
Lúa mì
|
4.655.290
|
1.316.110
|
283
|
2
|
Bánh Đậu nành
|
2.324.280
|
1.019.550
|
439
|
3
|
Đậu nành
|
1.314.620
|
621.281
|
473
|
4
|
Đường tinh chế
|
1.279.810
|
517.028
|
404
|
5
|
Bột của lúa mì
|
646.859
|
223.286
|
345
|
6
|
Bông lint
|
570.902
|
765.359
|
1.341
|
7
|
Thức ăn bổ sung
|
491.873
|
352.068
|
716
|
8
|
Tỏi
|
405.138
|
166.372
|
411
|
9
|
Ngô
|
338.798
|
77.841
|
230
|
10
|
Quýt, cam, chanh.
|
188.956
|
166.835
|
883
|
11
|
Tinh bột sắn
|
166.813
|
49.577
|
297
|
12
|
Táo
|
153.512
|
128.458
|
837
|
13
|
Thức ăn gluten
& Meal
|
151.628
|
90.242
|
595
|
14
|
Bánh của hạt cải
dầu
|
146.765
|
35.313
|
241
|
15
|
Cặn Từ Bia, Tp.
|
145.443
|
31.628
|
217
|
16
|
Gạo xay
|
137.413
|
57.523
|
419
|
17
|
Lạc bóc vỏ
|
132.069
|
130.821
|
991
|
18
|
Đường, nes
|
125.245
|
57.782
|
461
|
19
|
Đường thô ly tâm
|
113.413
|
57.128
|
504
|
20
|
Rice bị hỏng
|
107.292
|
35.065
|
327
|
Nguồn sản xuất và nhập khẩu thực phẩm ở Indonesia
Sản xuất lúa ở Indonesia
Sản xuất lúa khạo không đủ tiêu dùng trong nước, phải
tiếp tục nhập khẩu
Indonesia đứng thứ 3 trên thế giới về tổng sản lượng lúa,
nhưng cũng là nước nhập khẩu gạo lớn thứ 7 trên thế giới trong vòng 5 năm qua -
trung bình nhập hơn 1,1 triệu tấn gạo mỗi năm. Trong số các quốc gia sản xuất gạo lớn
nhất thế giới chỉ có Philippines và Indonesia cũng được xếp hạng trong
top ten của tất cả các nước nhập khẩu gạo. Do
sự thiếu hụt trầm kha về sản xuất lúa gạo, an ninh lương thực và mưu cầu tự
cung tự cấp gạo quốc gia đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của Chính phủ Indonesia . Gạo là lương thực chính của đất nước,
Indonesia có mức tiêu thụ gạo
trên đầu người đứng hàng thứ 7 trên thế giới, khoảng 139 kg trên đầu người/tháng.
Chính phủ Indonesia
ước tính rằng người dân dùng gạo cung cấp khoảng 40-50% nhu cầu lượng calo hàng
ngày và yêu cầu lượng protein tương ứng. Đối
với đất nước này có 248 triệu dân (The World Factbook), tình trạng cung cấp gạo
liên quan đến an ninh lương thực của nước này. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, tổng số gạo tiêu thụ đã được tăng nhanh hơn so với sản xuất, nhưng tốc độ
tăng trưởng diện tích trồng lúa quốc gia và năng suất đã khựng lại.
Sự mất cân bằng này dẫn đến giá cả lương thực ngày càng tăng
trong nước nhất là những thời điểm giáp hạt hoặc bị thiên tai mất mùa. Người
dân Indonesia
luôn phải chịu chi phí giá gạo cao vì không có nguồn lương thực khác trong nước
thay thế mà phải nhập khẩu.
Thực tế sản xuất lúa gạo của Indonesia đã trì trệ trong suốt
5 năm qua khi khi khí hậu biến đổi ảnh hưởng đến lượng mưa hàng năm và hàng
loạt các thiên tai như hạn hán, ngập lụt, giông bão, núi lửa và sóng thần luôn
luôn đe dọa đấn sản xuất. Biến đổi khí hậu là mối quan tâm hàng đầu của Chính
phủ Indonesia .
Để thực hiện những xu hướng cơ bản, cơ quan Chính phủ đã
công bố các sáng kiến chương trình
mới trong năm 2011 để tạo ra thặng dư 10 triệu tấn gạo (xay) vào năm 2015. Tuy nhiên, ngành công nghiệp không dễ
dàng tăng tốc nhanh chóng để trang bị các phương tiện cơ giới hóa phục vụ các
trang trại còn lạc hậu hiện nay và vì vậy phải tốn ngoại tệ nhập khẩu phương
tiện cơ giới hóa ngành nông nghiệp và do sức mua giới hạn của người nông dân
nên việc cải tiến kỷ thuật trong trang trại còn tiếp tục trì trệ.
Môi trường trồng lúa ở Indonesia
Lúa là cây lương thực quan trọng nhất ởIndonesia ngày nay,
với diện tích gieo trồng ước tính của Bộ Nông nghiệp Mỹ là 12,2 triệu ha vào
năm 2011, chiếm 30% tổng diện tích đất nông nghiệp. Cả nước có khoảng 77% số hộ nông dân
có trồng lúa (khoảng 25,9 triệu hộ), thu nhập từ cây lúa giải quyết cơ bản nhu
cầu đời sống hàng ngày.
Lúa là cây lương thực quan trọng nhất ở
Kích thước trung bình của trang trại là rất nhỏ dưới 1 ha,
với phần lớn nông dân canh tác ruộng đất từ 0,1 - 0,5 ha. Sản
xuất lúa chủ yếu tập trung trên các đảo Java và Sumatra, với gần 60% tổng sản
lượng lúa được sản xuất từ đảo Java. Đồng thời, Java là đảo đông dân nhất trên
thế giới và gần 60% dân số của quốc gia (khoảng 143,8 triệu dân). Với dân số tập trung cao, có cường độ cạnh tranh và tạo áp lực bốc lột đất nhằm mục
đích sản xuất lương thực. Do dó Java cũng là trọng tâm của nỗ lực nghiên cứu và
phát triển cây lúa ở Indonesia
như tìm kiếm các bước đột phá tiếp theo trong các giống năng suất cao và hệ
thống canh tác được cải thiện.
Lúa được trồng ở cả đồng bằng và miền núi ở Indonesia , với các ruộng lúa ở vùng
cao chủ yếu dựa vào nước trời và ít dùng phân bón hóa học. Vùng đồng bằng lúa
có tưới chiếm khoảng 90% tổng diện tích trồng lúa quốc gia và chiếm 94% tổng
sản lượng. Kết quả là, năng suất
lúa vùng được tưới tiêu cao hơn khoảng 60% so với năng suất vùng cao lệ thuộc
nước trời.Vùng đồng bằng trồng lúa tập trung nhiều ở Java, nhưng cũng phổ biến
trên các đảo Sumatra và Sulawesi –cả
ba 3 hòn đảo này góp khoảng 89% tổng sản lượng gạo quốc gia.
Ngoài ra còn có một lượng nhỏ lúa được trồng trên các đảo
bên ngoài theo một hệ thống canh tác truyền thống. Với cách canh tác quảng canh
này chủ yếu với nông dân sản xuất nhỏ ở vùng sâu, vùng xa, những người đang
thiết lập một trang trại trồng hỗn hợp của cây cao su và cây lương thực. Cây
lúa được trồng xen trong các vườn cao su mới trồng hoặc vườn cao su già cổi đã
bị đốn hạ. Ở đây nông dân thường trồng xen lúa nương và ngô trong vườn cao su
để tự túc lương thực.
Ruộng lúa lệ thuộc nước trời ở Indonesia
Đất chủ động tưới nước
Thuỷ lợi là nền tảng cho hệ thống canh tác lúa ổn định cho năng suất cao trên toàn thế giới, vàIndonesia không
là ngoại lệ. Độ chắc chắn của sản
xuất lúa gạo hàng năm được tăng cường rất nhiều thông qua kiểm soát gia tăng
qua thời gian và khối lượng nước được sẵn có để cây lúa cần trong thời gian
phát triển của nó. Nông dân đã
thiết kế hệ thống địa phương từ thời cổ đại, chuyển nước từ sông, suối cho đất
canh tác gần đó. Những công trình này ngày càng được cải thiện cho thích nghi
với cây lúa cải tiến hiện nay.
Thuỷ lợi là nền tảng cho hệ thống canh tác lúa ổn định cho năng suất cao trên toàn thế giới, và
Đến năm 1960 đã được báo cáo rằng khoảng 60% các hệ thống
thủy lợi của đất nước đã xuống cấp, phát huy hiệu quả kém. Chương trình Chính phủ chủ yếu để phục
hồi cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hiện có và xây dựng đề án bổ sung đã bắt đầu vào năm
1969. Trong thời gian 40 năm sau Indonesia dần dần mở rộng năng lực tưới tiêu cho
cây trồng hàng năm, với tổng diện tích tưới tiêu chủ động tăng khoảng 3,25
triệu ha hay 77%. Tổng diện tích
lúa trong nước tăng cùng với việc mở rộng trong các hệ thống thuỷ lợi, tăng 4,0
triệu ha hay 49% từ 1970-2011. Quốc
gia sản xuất lúa (thô), được hưởng lợi
từ cả hai nguồn cung cấp thủy lợi tăng cường và áp dụng rộng rãi các giống năng
suất cao hiện đại, tăng 39,4 triệu tấn (203%). Gạo xay sản xuất tăng 24,2 triệu tấn
(184%).
Người ta ước tính rằng 40-50% của tất cả các hệ thống thủy
lợi trên phạm vi toàn quốc hiện đang xuống cấp, gây hạn chế đối với sản xuất
nông nghiệp. Ngoài ra, tốc độ
tăng trưởng của phát triển hệ thống thủy lợi mới cũng chậm lại so với thập kỷ
trước, như ngân sách của Chính phủ chủ yếu nhắm mục tiêu đến các chương trình
trợ cấp lớn cho mùa màng cho phân bón và hạt giống. Kết quả là, bỏ quên đầu tư sửa chữa cơ
sở hạ tầng thủy lợi và phát triển sẽ áp đặt những trở ngại nghiêm trọng tiềm
năng trong tương lai cho sự tăng trưởng sản xuất lúa gạo ở Indonesia .
Theo Bộ Công
trình công cộng Indonesia trong năm 2012, khoảng 84% tổng diện tích lúa ở Indonesia
được tưới tiêu, trong khi 16% còn lại phụ thuộc vào lượng nước mưa. Lúa được
trồng quanh năm, với một số nông dân có thể trồng 3 vụ trong một khoảng thời
gian 12 tháng. Phổ biến hơn là trồng
trồng 2 vụ lúa mỗi năm, với chu kỳ cây trồng theo mùa điển hình hoặc quay vòng
trồng lúa, bỏ hoang hoặc luân canh các loại cây trồng thay lúa gạo (như ngô,
đậu tương, đậu phộng).
FAO ước tính rằng khoảng 70% tổng diện tích lúa vùng đồng
bằng sản xuất 2 vụ lúa mỗi năm. Khoảng
60% tổng sản lượng được sản xuất trong vụ đầu tiên trong mùa mưa (tháng ba),
trong khi 2 vụ nhỏ hơn trồng trong mùa khô.
Ruộng lúa chủ động tưới tiêu ở Indonesia
Theo cơ sở dữ liệu quốc gia của FAO - AQUASTAT, phần lớn lúa
gieo trong tất cả 3 mùa được tưới tiêu hoặc từ đề án kỹ thuật lớn do chính phủ
quản lý, hệ thống khu vực quản lý của chính quyền địa phương, hoặc các hệ thống
cấp độ cộng đồng hoạt động do nông dân tự quản. Hạn hán trầm trọng không phải là phổ
biến, nhưng có thể trở thành một vấn đề trong chu trình thời tiết El Nino. Nghiêm trọng cuối cùng của El Nino xảy
ra vào năm 1997, khiến năng suất cây trồng giảm khoảng 5%. Nông dân thường có sự linh hoạt đáng
kể để gieo các loại giống lúa khác nhau để tránh né thiệt hại do các trận mưa
dầm cuối vụ để bảo đảm phẩm chất hạt gạo.
Diện tích và năng suất trong lịch sử trồng lúa của Indonesia
Diện tích và sản
lượng lúa ở Indonesia
Một loạt các phát triển rất có lợi từ 1960-2000
đã giúp Indonesia triệt để tăng khả năng sản xuất lúa
gạo trong khoảng thời gian của gia tăng dân số rất nhanh chóng. Những phát triển này đảm bảo rằng sản
xuất lúa gạo quốc gia về cơ bản theo kịp với nhu cầu tiêu thụ gạo trong nước
tăng nhanh, đảm bảo an ninh lương thực cơ bản của đất nước trong khi cũng làm
giảm yêu cầu đối với hàng nhập khẩu. Thời kỳ này kéo dài sự tăng trưởng nhanh
chóng trong cả hai vụ lúa và năng suất trùng hợp với "cuộc cách mạng
xanh", trong đó các giống mới năng suất cao đã được phát triển cùng với hệ
thống canh tác được cải thiện đáng kể về năng xuất lúa.
Tổng diện tích lúa của Indonesia tăng khoảng
5,25 triệu ha hay 76% từ năm 1961 dến 2010, chủ yếu qua việc mở rộng dần dần
diện tích và năng xuất trên 3 hòn đảo Java, Sumatra, và Sulawesi. Sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi
mới, bao gồm một sự gia tăng mạnh việc xây dựng các hồ chứa nước lớn, cho phép
nhiều khu vực tăng cường chu kỳ canh tác lúa và thu hoạch nhiều vụ trong năm
thay vì chỉ trồng một vụ như trức kia.
Đến năm 2011, hơn 50% tổng diện tích lúa thường
được trồng trong mùa khô (vụ thứ 2 và 3), một kỳ công mà trước kia không thể có
được khi chưa có những công trình phát triển cơ sở hạ tầng lớn của quốc gia.
Các nhà nghiên cứu cây trồng Indonesia cũng đã
đóng góp nhiều thập kỷ tăng trưởng nhanh chóng bằng cách phát triển và phát
hành 190 giống lúa năng suất cao (HYV) cho đất ngập nước và 30 giống lúa năng
suất cao cho vùng đất khô hạn, thay thế các giống lúa mùa địa phương kể từ cuối
những năm 1960s. Công trình tiên phong của họ trong việc chọn lọc các giống lúa
cải tiến cho phép quốc gia tăng năng suất hơn gấp đôi trong năm 2010 so với
thập kỷ 1960s (khoảng 135%).
Nông dân Indonesia đã khá chủ động trong việc
áp dụng giống mới, với khoảng 85% nông dân trồng giống lúa cao sản (HYV).Tuy
nhiên, giống IR 64 được phát hành trong cuối thập kỷ 1960s vẩn còn chiếm khoảng
31% diện tích lúa quốc gia trong năm 2011 do tính thích nghi và chất lượng gạo
của nó được ưa chuộng.
Giống lúa cao sản phổ biến thứ hai là giống
Ciherang, hiện đang chiếm 22% tổng diện tích gieo và lần đầu tiên được phát
hành vào năm 2000. Đây là loạt
đầu tiên trong nhiều thập kỷ thành công bắt đầu chuyển dịch diện tích giống lúa
cạnh tranh với giống IR-64.
Nhìn chung, tiêu thụ và sử dụng phân bón Indonesia cũng tăng vọt trong thời
gian gần đây, giúp nông dân tăng đáng kể năng suất cây lúa với cả hai giống lúa
nêu trên. Cần lưu ý rằng phải mất
nhiều năm mới được giới thiệu giống HYV như IR-64 được nông dân chấp nhận để
gieo trồng với diện tích lớn.
Trong những năm từ 1960-1980, phần lớn diện
tích lúa quốc gia vẫn sẽ được dành cho các giống lúa mùa truyền thống, chứ
không phải là giống lúa cải tiến HYV và dùng giống mới cải thiện đáng kể năng
suất tổng thể trong suốt 2 thập kỷ và là một bằng chứng sử dụng phân bón tăng
cao trong cả nước. Dữ liệu từ
Hiệp hội Công nghiệp Phân bón Quốc tế (IFA) cho thấy tổng số quốc gia tiêu thụ
phân bón tăng từ 144.000 tấn năm 1961 lên 4,47 triệu tấn trong năm 2009, tăng
3.000%.
FAO đã ghi nhận rằng khoảng 52% phân bón tiêu
thụ ở Indonesia được dùng cho các vụ lúa, còn lại sử dụng trên bắp, cọ dầu, cây
rau và trái cây. Họ cũng lưu ý
rằng sự tăng trưởng mạnh mẽ trong việc tiêu thụ phân bón tổng thể giữa năm 1970
và 1990 đã trực tiếp thúc đẩy bởi chính sách của Chính phủ và các chương trình
hướng dẫn theo hướng tăng sản xuất lúa gạo.
Chính phủ Indonesia đã tích cực tài trợ việc
tạo ra một ngành công nghiệp phân bón trong nước để đảm bảo cung cấp đầy đủ, trợ
cấp chi phí phân bón cho nông dân, và phát triển các dịch vụ cây trồng quốc gia
mở rộng để cung cấp tiếp cận cộng đồng cho người trồng không quen thuộc với các
giống mới. Sau năm 1990, tỷ lệ
tiêu thụ phân bón đình trệ khi Chính phủ giảm đáng kể cả trợ cấp phân bón và
các dịch vụ khuyến nông thôn. Sự
kết hợp của chính sách và thay đổi mục tiêu ngân sách của nông nghiệp trong một
thời gian kéo dài của tình trạng làm trì trệ sản lượng lúa (1987-2000) và các
vấn đề an ninh lương thực, với mức độ cao bất thường nhập khẩu gạo từ
1994-2002. Một sự thay đổi trong
chính sách của Chính phủ khôi phục lại các khoản trợ cấp phân bón đáng kể trong
năm 2002, tuy nhiên, đảo ngược xu hướng này một lần nữa và cho phép tăng trưởng
hơn nữa trong năng suất lúa quốc gia.
Mặc dù tất cả các tiến trình lịch sử, quan sát
hiện tại của lúa gạo Indonesia là chậm
tốc độ tăng trưởng diện tích và năng suất lúa trong nước. Năng suất cây trồng tăng trưởng trung bình
gần 4% mỗi năm từ năm 1960 và 1989, nhưng kể từ đó đã giảm xuống còn khoảng
0,5% mỗi năm từ năm 1990 đến năm 2010. Tương
tự như vậy, sau khi khu vực trồng lúa mở rộng tại một tỷ lệ 138.000 ha một năm
từ 1960-1998 (tỷ lệ tăng trưởng 2%), nó làm chậm lại tốc độ trung bình là 9.000
ha một năm (tăng ít hơn 0,1% mỗi năm) giữa 1999-2010.
Xu hướng giảm
tốc độ là mối nguy hiểm cho an ninh lương thực của Indonesia trong những năm sắp tới.
Mục tiêu và sáng kiến Chính phủ về phát triển lúa gạo
Chính phủ Indonesia đang phải vật lộn với vấn
đề an ninh lương thực bằng cách ban hành chính sách hy vọng sẽ thúc đẩy sự gia
tăng đáng kể trong sản xuất cây lương thực và khuyến khích tiêu thụ lớn của
loại cây lương thực thực phẩm ngoài gạo như sắn và ngô.
Cho đến nay chưa có bằng chứng kết luận rằng
giải pháp của Chính Phủ có tác dụng. Trong một Diễn đàn tháng 2 năm 2012 về an
ninh lương thực tổ chức tại Jakarta, khi Tổng thống nhắc lại công khai rằng
nước này sẽ tiếp tục dễ bị khủng hoảng lương thực trong tương lai miễn là họ
phụ thuộc quá nhiều vào gạo là lương thực quốc gia. Nói cách khác, Indonesia không
có thể tự cung tự cấp gạo và cần phải đa dạng hóa chế độ ăn uống bao gồm nhiều
nguồn hạt lương thực không truyền thống. Thật
không may, điều này báo hiệu rằng Chính phủ hoặc là không tin rằng có thể phát
triển đầy đủ trong lĩnh vực lúa gạo, hoặc là không quan tâm bố trí đủ nguồn lực
tài chính dài hạn để thực hiện nó.
Liên quan đến những vấn đề này, những gì chính
phủ đề xuất? Một vài trong số các
sáng kiến chính được nêu dưới đây:
a) Kế hoạch luân chuyển nông dân về
vùng đất mới năm 2009
Trong tháng 11/2009 mới được bổ nhiệm Bộ trưởng
Nông nghiệp thông báo rằng một ưu tiên quan trọng của của mình trong 100 ngày
đầu tiên là làm sống lại kế hoạch luân chuyển nông dân của thời tổng thống Suharto, trong đó một số lượng
lớn của nông dân từ Java sẽ được cung cấp đất ở các đảo bên ngoài để trồng lúa. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp chỉ đạo các
Cơ quan Đất đai Quốc gia (BPN) để tìm cách làm cho càng nhiều càng tốt biến 6,0
triệu ha đất phù hợp cho nông dân trồng lúa. Hiện
đã không có kế hoạch cụ thể phát triển, đất có sẵn như là năm 2012.
b) Mở khu tích hợp thực phẩm Merauke và
năng lượng động sản (MIFEE) 2009
Chính phủ đang nhắm mục tiêu một phần từ xa của tỉnh Papua (Merauke Regency) cho quy mô
thương mại lớn vườn cây nông nghiệp, bao gồm lúa, ngô, lúa miến, mía, dầu cọ,
gỗ, chăn nuôi gia súc, gia cầm và cá. Đề
xuất ban đầu từ 1,2 - 2,5 triệu ha đất sẽ được phân bổ cho các công ty thương
mại sản xuất cây trồng, lương thực và năng lượng với một kích thước trang trại
tối thiểu 12 ha. Cơ giới hóa
thương mại trồng lúa gần 300.000 ha đã được lên kế hoạch. Mặt hàng lương thực như gạo sản xuất
trong Merauke không được phép xuất khẩu cho đến khi Chính phủ xác định nhu cầu
trong nước đã được đáp ứng đầy đủ. Một
nghiên cứu đất đai phù hợp đã được hoàn thành trong năm 2008, nhưng năm 2010
chỉ có 500 ha trồng lúa đã được phát triển.
c) Hệ thống thâm canh lúa (SRI) mở rộng
2011
Bộ Nông nghiệp dự định tăng diện tích cây trồng
và Quản lý chương trình tài nguyên (ICM) từ 100.000 ha năm 2011 để 1,5 triệu
vào năm 2015. Điều này có nghĩa
mở rộng chương trình từ 250.000 người trồng tham gia ước tính năm 2011 lên 3,75
triệu vào năm 2015. Các chương
trình hệ thống canh tác lúa ICM chi phí thấp hơn mới được gọi là SRI với quản
lý dịch hại tổng hợp (IPM) để làm tăng đáng kể sản lượng lúa. Canh tác lúa theo kỹ thuật SRI thường
sử dụng hạt giống, nước, và phân bón để tăng 20-40% sản lượng cây trồng cao hơn
trung bình. Chương trình ICM dựa
chủ yếu vào hỗ trợ nông học và quản lý dịch hại chuyên dụng và giáo dục từ một
số giới hạn các cán bộ khuyến nông có trình độ cây trồng. Vấn đề nghiêm trọng ở cấp độ trang
trại đã phát sinh trong những năm qua là những người trồng cố gắng để thích ứng
với kỹ thuật canh tác mới này. Nước
khó khăn và các vấn đề quản lý dịch hại có thể phát sinh, giảm năng suất và
loại bỏ các lợi ích của hệ thống được cải thiện. Nông dân áp dụng các kỹ thuật
này được dự kiến sẽ chậm hơn dự
tính, do thiếu cán bộ khuyến nông có trình độ và hiểu biết trong thời gian ngắn
để phục vụ đông đảo lực lượng nông dân thực hiện theo chương trình củ Chính phủ
ở Indonesia .
d) Đề án công ty thương mại Nhà nước sản
xuất lúa gạo 2012
Trong tháng 1/2012 Chính phủ đã công bố kế
hoạch chi tiêu 998 triệu USD để tạo ra 100.000 ha ruộng lúa mới trong tỉnh Đông Kalimantan ,
Với phần mở rộng có thể có đến 300.000 ha, nếu dự án ban đầu thành công. Bộ trưởng Doanh nghiệp Nhà nước báo
cáo rằng 3 công ty thuộc sở hữu nhà nước chuyên về dầu cọ và sản xuất phân bón
được dự kiến sẽ huy động đủ vốn để chuyển đổi
đất sản xuất lên 1,0 triệu tấn gạo vào năm 2013, với tiềm năng mở rộng là 6,0
triệu tấn mỗi năm sau đó. Đây là
một phần mục tiêu của Chính phủ trung ương tạo ra thặng dư gạo quốc gia 10,0
triệu tấn vào năm 2015.
Bộ Bộ trưởng tiếp tục xây dựng các doanh nghiệp
nhà nước cần thiết để kiểm soát sản xuất lúa gạo bởi vì chính quyền địa phương
trên Java và Sumatra không thể và không muốn
tăng sản lượng của họ, một phần do hạn chế tài trợ. Một nghiên cứu tính khả thi đất đã
được hoàn thành và cũng không có bất kỳ phát triển cơ sở hạ tầng trước các
thông báo. Nếu không có một ha
đất nông nghiệp duy nhất được cấp phép hoặc chuyển đổi đất trồng lúa (hầu hết
các khu vực mục tiêu là vùng đất rừng) của tháng 3/2012, dự kiến 1.0 triệu tấn gạo
sẽ được sản xuất vào năm 2013 - và gần 15,4 triệu tấn tăng theo yêu cầu của năm
2014 để đât sản xuất thặng dư 10,0 triệu tấn gạo xay vào năm 2015.
Kết luận
Ngành nông nghiệp Indonesia báo cáo sử dụng trên 40%
lực lượng lao động quốc gia trong khi đóng góp khoảng 17% GDP. Đây là một trong những trụ cột của nền
kinh tế của đất nước. Ngân hàng Thế
giới báo cáo rằng chi tiêu Chính phủ dành cho nông nghiệp đã được tăng khoảng
11% mỗi năm kể từ năm 2001, với thị phần của tổng chi tiêu Chính phủ tăng gấp
đôi từ 3 đến 6% vào năm 2008. Trợ
cấp nông nghiệp chiếm khoảng 60% ngân sách hàng năm của Bộ Nông nghiệp, trợ cấp
phân bón là chi tiêu lớn nhất. Tuy nhiên, mặc dù mô hình này đầu tư mạnh mẽ
phát triển khu vực công, chi phí trong nông nghiệp trong thập kỷ qua, hầu hết
sản lượng cây trồng thực phẩm đang đình trệ ở Indonesia .
Một loạt các vấn đề nghiêm trọng và phần nào
khó chữa liên quan đến dự kiến sẽ hạn chế tốc độ tăng trưởng sản xuất gạo trong tương lai Indonesia , bao gồm:
1-Dân số ngày càng tăng, phần lớn thất học,
nông dân nghèo ở nông thôn với nguồn vốn thấp.
2-Áp lực dân số cao trên mỗi ha đất có sẵn
trong khu vực lúa phát triển.
3-Giới hạn trong cơ hội việc làm phi nông nghiệp để tích lũy
vốn.
4 Xu hướng suy giảm trong mô hình trang trại
trung bình - nhỏ và nhận được ít lợi nhuận hơn do thực hành theo kiểu truyền
thống.
5-Phải mất trung bình hàng năm khoảng 100.000
ha do đất trồng lúa bị chuyển đổi để sử dụng phi nông nghiệp (thương mại, công
nghiệp, đô thị).
6- Giống lúa từ nhựng năm 1960s vẫn còn chiếm
ưu thế với 31% tổng diện tích lúa gieo trồng một giống, và sự hấp thu chậm với
giống mới HYV.
7-Phần lớn ngân sách của Chính phủ trong nông
nghiệp được phân bổ trợ cấp phân bón và hạt giống mặc dù có lợi nhuận cao năng
suất cây trồng.
8-Ngân sách cực thấp từ các cấp chính quyền
Trung ương và cấp Tỉnh để phát triển cơ sở hạ tầng thủy lợi, sửa chữa.
9-Số lượng cán bộ có trình độ cao để mở rộng
cây trồng hạn chế để đào tạo và quản lý dịch hại.
10-Thiếu khuyến khích của Chính phủ trong thực
hiện các chương trình chính trong nông nghiệp, bao gồm cả phần mở rộng cây
trồng ở cấp tỉnh và địa phương.
Như đã nêu ở trên, sự kết hợp của tình trạng
trì trệ diện tích cây trồng và sản lượng tại Indonesia có khả năng phá hoại bất
kỳ hy vọng nào của đất nước trong tương lai gần để đạt được tự túc về gạo. Tăng dân số, ước tính ở mức 1,47%
trong năm 2010 (BPS), hiện đang tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của sản xuất
lúa gạo trong nước - suy luận rằng quy mô nhập khẩu hàng năm sẽ phát triển cho
đến khi đất nước có thể làm sống lại ngành sản xuất lúa gạo. Tăng trưởng khu vực bị ảnh hưởng bởi
lịch sử Chính phủ đầu tư thấp trong phục hồi chức năng cơ sở hạ tầng thủy lợi
và phát triển, trong khi sản lượng bị hạn chế bởi sự hấp thu thường chậm các
giống mới HYV và nông dân thiếu vốn (nghèo đói chung) tính theo bình quân.
Ở nhiều quốc gia Đông Nam Á, những tiến bộ dễ
dàng trong sản xuất cây trồng tăng trưởng đã đạt được nhờ phần lớn vào việc
giới thiệu các giống cải tiến, phân bón tăng lên, và tiếp cận nhiều hơn với chủ
động tưới tiêu. Nhen lại ngọn lửa
tăng trưởng trong lĩnh vực lúa gạo của Indonesia trong những năm tới có thể yêu
cầu đầu tư lớn hơn nhiều, giáo dục, và phát triển hơn, Chính phủ cần đầu tư
nhiều ngân sách hơn để hỗ trợ.
Trong bất kỳ trường hợp nào, các tiềm năng tự
cung tự cấp gạo trong thập kỷ tới có vẻ như ngày càng khó khăn nếu không có kế
sách và quyết tâm để đạt được.
Các dự toán sản xuất ngũ cốc và các mặt hàng
nông sản khác có sẵn trên trang sản xuất nông nghiệp của iPad hoặc tại PSD Online của Bộ nông nghiệp Hoa kỳ USDA, các bạn có
thể tham khảo thêm.
Năm
|
Diện tích thu hoạch (Ha)
|
Năng suất (Kg / Hà)
|
Sản lượng (tấn)
|
|
1961
|
6857000
|
1,762.3
|
Fc
|
12084000
|
1965
|
7327000
|
1,770.8
|
Fc
|
12975000
|
1970
|
8135080
|
2,376.3
|
Fc
|
19331000
|
1975
|
8495100
|
2,629.7
|
Fc
|
22339200
|
1980
|
9005070
|
3,292.8
|
Fc
|
29651900
|
1985
|
9902290
|
3,941.8
|
Fc
|
39032900
|
1990
|
10502400
|
4,301.8
|
Fc
|
45178800
|
1995
|
11438800
|
4,348.7
|
Fc
|
49744100
|
2000
|
11793000
|
4,400.7
|
Fc
|
51898000
|
2001
|
11500000
|
4,387.9
|
Fc
|
50460800
|
2002
|
11521200
|
4,469.1
|
Fc
|
51489700
|
2003
|
11477400
|
4,542.6
|
Fc
|
52137600
|
2004
|
11923000
|
4,536.5
|
Fc
|
54088500
|
2005
|
11839100
|
4,573.9
|
Fc
|
54151100
|
2006
|
11786400
|
4,620.1
|
Fc
|
54454900
|
2007
|
12147600
|
4,705.2
|
Fc
|
57157400
|
2008
|
12309200
|
4,894.8
|
Fc
|
60251100
|
2009
|
12883600
|
4,998.5
|
Fc
|
64398900
|
2010
|
13244200
|
5,014.4
|
Fc
|
66411500
|
Ghi chú: [] = dữ liệu chính thức | Fc = dữ liệu tính toán
Nguồn: FAOSTAT © FAO Phòng Thống kê 2012 | 28 năm
2012
Tài liệu tham khảo
5- Ho Dinh Hai-Cultivating
rice in Indonesia-
http://allworldrices.blogspot.com/