Lịch sử phát triển cây trồng biến đổi gen


Lịch sử cây trồng biến đổi gen trên thế giới

Cây trồng biến đổi gen là cây trồng mới được được áp dụng kỹ thuật di truyền hiện đại để làm biến đổi cấu trúc ADN của nhân tế bào nhằm tạo ra các tính trạng mới theo ý muốn của con người như tính kháng sâu bệnh, tính thích nghi, phẩm chất, màu sắc... của nông sản..
Về bản chất của cây trồng biến đổi gen là sự biến đổi vật chất di truyền, tiếp nhận những gen mới, kết quả là xuất hiện những tính trạng mới. Quá trình biến đổi vật chất di truyền (thêm gen mới) nhờ vào công nghệ chuyển gen hiện đại. Nếu so sánh quá trình biến đổi gen với quá trình đột biến trong tự nhiên thì về bản chất của hai quá trình này gần giống như nhau. Bởi vì quá trình tiến hóa của sinh vật đều dựa vào quá trình biến đổi vật chất di truyền, trong đó đột biến đóng vai trò quan trọng.
Dưới tác động của các nhân tố gây đột biến, vật chất di truyền được biến đổi theo hai hướng: thêm đoạn gen hay bớt đoạn gen. Quá trình thêm đoạn nhờ công nghệ chuyển đổi gen tương tự như quá trình thêm đoạn AND trong đột biến tự nhiên. Tuy nhiên hai quá trình này cò nhiều điểm khác nhau:
-Quá trình chọn lọc tự nhiên chỉ giữ lại những biến dị có lợi cho quá trình tiến hóa của loài.
-Còn trong kỹ thuật chuyển gen cây trồng chỉ giữ lại tính trạng định hướng trước theo ý muốn của con người nhằm vào mục đích kinh tế hoặc chất lượng và không đóng góp gì cho sự tiến hóa của loài.
Quá trình hình thành tính trạng mới trong tự nhiên phải diễn ra hàng trăm năm, hàng ngàn năm hoạc hàng triệu năm, còn quá trình chuyển đổi gen theo công nghệ hiện đại chỉ cần 1-2 năm để bổ sung các tính trạng ưu việt mới.
Quá trình tiếp nhận gen mới trong tự nhiên bị ngăn cản bởi ranh giới loài, công nghệ chuyển gen cho phép di chuyển các gen mới từ các loài khác mà phương pháp lai tạo truyền thống không thể thực hiện được.
Mặc dù cây trồng chuyển đổi gen đang bị công kích bởi các nhà bảo vệ tự nhiên cũng như các tôn giáo và những trường phái bảo thủ. Song với tính ưu việt của cây trồng chyến đổi gen, xu thế mở rộng diện tích thay dần cho cây trồng truyền thống là điều hiển nhiên, trước hết ở những nước có nền công nghệ sinh học và nền nông nghiệp tiên tiến.
Cây trồng biến đổi gen được đề cập ở mục này chỉ ra những giống cây trồng được chọn tạo bằng kỹ thuật di truyền hiện đại, chuyển vào cây trồng truyền thống những gen hoàn toàn mới từ các sinh vật khác vào cây trồng như từ gen của cây trồng khác loài, từ vi khuẩn, tảo, nguyên sinh động vật...
Các lĩnh vực thử nghiệm đầu tiên của thực vật biến đổi gen xảy ra ở Pháp và Mỹ trong năm1986, khi cây thuốc lá được thiết kế để đề kháng với thuốc diệt cỏ.  Năm 1987, Viện di truyền thực vật Ghent (Bỉ) , được thành lập bởi Marc Van Montagu và Jeff Schell, được các Công ty đầu tư để phát triển kỹ thuật di truyền trên cây thuốc lá với khả năng chịu côn trùng bằng cách thể hiện gen mã hóa cho protein diệt côn trùng từ loài vi khuẩn BT (Bacillus thuringiensis).
Trung Quốc là quốc gia đầu tiên cho phép thương mại hóa cây thuốc lá biến đổi gen kháng vi-rút vào năm 1992. Cây trồng biến đổi gen đầu tiên được chấp thuận cho bán tại Mỹ năm 1994 là cây cà chua FlavrSavr có thời gian bảo quản lâu hơn.
Năm 1994, Liên minh châu Âu (EU) đã phê chuẩn cây thuốc lá thiết kế có khả năng chịu thuốc diệt cỏ bromoxynil ,là cây trồng biến đổi gen đầu tiên trên thị trường ở Châu Âu.
Năm 1995, khoai tây biến đổi gen BT đã được phê duyệt an toàn của Cơ quan Bảo vệ môi trường, là cây thực phẩm biến đổi gen đầu tiên cây trồng được chấp thuận tại Hoa Kỳ.
Năm 2009 có 25 quốc gia nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu cây trồng biến đổi gen, trong đó chủ yếu là các nước phát triển và đang phát triển (15 nước). Diện tích cây biến đổi gen khoảng 180 triệu ha, trong đó Hoa Kỳ 62,5 triệu ha, Argentina 21 triệu ha, Brazil 15,8 triệu ha, Ấn Độ 7,6 triệu ha, Canada 7,6 triệu ha...
Theo đánh giá của Clive James, giám đốc của ISAAA (Cơ quan dịch vụ quốc tế về tiếp thu các ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp). Chỉ trong 15 năm sau khi thương mại hóa, cây trồng công nghệ sinh học biến đổi gen vượt 180 triệu ha trong năm 2010, trong đó có 154 triệu nông dân ở 29 quốc gia hiện đang được hưởng lợi từ công nghệ mới này. Với sự gia tăng 87 lần chưa từng có từ năm 1996 đến 2010, cây trồng công nghệ sinh học là công nghệ cây trồng được áp dụng nhanh nhất trong lịch sử của nông nghiệp hiện đại.
Trong năm 2010, các nước đã phát triển các loại cây trồng biến đổi gen nhất là Hoa Kỳ (45%), Brazil (17%), Argentina (15%), Ấn Độ (6%), Canada (6%), Trung Quốc (2%), Paraguay (2%), Pakistan (2%), Nam Phi (1%) và Uruguay (1%). 
Tại Mỹ trong năm 2010 cây trồng giống biến đổi gen đã chiếm: 93% diện tích trồng đậu tương, 93% bông, 86% ngô và 95% của củ cải đường. Trong đó giống đậu tương biến đổi gen được ghép vào gen kháng thuốc diệt cỏ glyphosate. Bông và ngô được chuyển vào cả 2 gen chống thuốc diệt cỏ glyphpsat và gen diệt côn trùng  BT ( được chuyển từ loài vi khuẩn Bacillus thuringiensis).
Năm 2010 là kỷ niệm 15 năm thương mại hóa cây trồng biến đổi gen, 1996-2010. Diện tích cây trồng biến đổi gen (tính theo luỹ kế) giai đoạn 1996-2010 vượt 1 tỷ ha (tương đương với tổng diện tích rộng lớn của Mỹ hoặc Trung Quốc), rõ ràng điều đó cho thấy cây trồng biến đổi gen đang được chấp nhận và phát triển mạnh.