Tình hình sản xuất lúa lai ở Bangladesh, Nhật Bản và Philippines
--*--
a-Tình hình sản xuất lúa lai ở Bangladesh
Nghiên cứu lúa lai đã được bắt đầu tại
Viện Nghiên cứu lúa gạo Bangladesh (BRRI) vào năm 1983 nhưng chỉ cho mục đích học tập. Chính phủ khuyến khích các công ty khu vực tư nhân nhập khẩu hạt giống lúa
lai và thử nghiệm chúng trên ruộng của nông dân.
Một số công ty kinh doanh hạt giống tư
nhân nhập khẩu lúa lai và đánh
giá thông qua thử nghiệm trên trang trại trong thời gian 1997-1998 ở vụ đông. Năm 2001, khoảng 20.000 ha lúa lai được
trồng trong nước, đến năm 2003 diện tích lúa lai là 49.655 ha, chiếm ít hơn 1%
tổng diện tích lúa ở Bangladesh
.
Husain (2001) cho thấy rằng năng suất hạt
lai cao hơn 14 % hơn so với các
giống năng suất cao. Khó khăn để phát
triển sản xuất lúa lai ở Bangladesh
do phụ thuộc bên ngoài và chi phí hạt giống cao, chất lượng hạt gạo kém nên giá
bán thấp.
Mặc khác lúa lai khó phát triển ở Bangladesh
còn do hạt gạo lai có độ dính cao, mùi vị kém nên không thu hút được người tiêu
dùng có thị hiếu quen dùng gạo địa phương.
b-Tình hình trồng lúa lai ở Nhật Bản
Nhật Bản đã nghiên
cứu lúa lai từ những năm 1950. Sinjyo phát triển các dòng A, B và R
lúa japonica (Taichong 65) vào cuối những năm 1950s, nhưng nó đã không được sử
dụng thương mại.
Bộ Nông nghiệp,
Lâm nghiệp và Thủy sản bắt đầu chương trình quốc gia nhân giống lúa lai vào năm
1983, và lúa lai ba dòng đầu tiên, giống Hokuriku-ko 1, được phát triển vào năm
1985, năng suất gia tăng khoảng 20%.
Liên đoàn quốc
gia của Hiệp hội Hợp tác xã nông nghiệp (Zen-Noh) và một số công ty tư nhân như
Công ty Hợp tác Quốc tế Ramm, Công ty TNHH Kirin Brewer và Công ty Sumitomo
Chemical Co, cũng tham gia vào phát triển và thử nghiệm lúa lai bằng nhiều cách
tiếp cận khác nhau.
Zen-Noh đã đăng
ký giống lúa lai ba dòng japonica và năng suất tăng từ 5-15%. Bộ Nông-Lâm-Thủy
sản Nhật Bản cũng đã tạo ra các giống lúa lai japonica Kanto Các đường 1, Ouu
Các đường 1 và Thư Các 4781 tăng năng suất từ 16-19%.
Tuy nhiên, do
chất lượng hạt kém nên các giống lúa lai không phù hợp với thị trường Nhật Bản.
Một hạn chế khác trong việc phát triển và sử dụng công nghệ lúa lai tại Nhật
Bản là do chí phí cao để sản xuất hạt giống và giá hạt giống cao không có lợi
cho nông dân.
c-Tình hình trồng lúa lai tại Philippines
Một Chương trình Thương mại lúa lai (HRCP)
khởi xướng vào năm 2001, là chiến lược của chương trình Chính phủ (GMA) để đạt
được tự cung tự cấp gạo trong nước.
HRCP theo đuổi các mục tiêu sản xuất 135
ha vào năm 2002, 200.000 ha vào năm 2003 và 300.000 ha vào năm 2004. Theo số
liệu thống kê của chính phủ Philippines, giống lúa lai trong giai đoạn
2001-2007 đã tăng năng suất 33% so giống cải tiến tốt nhất ở địa phương.Việc áp
dụng giống lai của nông dân còn chậm, khoảng 5% diện tích trồng lúa lai trong
năm 2004 đến 11% diện tích năm 2005.
Chính phủ Philippines có hạt giống lai được trợ
cấp rất nhiều. Điều này tạo ra cho
phổ biến lúa lai vì nó phụ thuộc vào ngân sách của Chính phủ, đặc biệt là trong
thời gian của cuộc khủng hoảng
tài chính và thâm hụt ngân sách, như đã được các trường hợp trong vài năm qua.
d-Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI tham gia phát triển lúa lai
Kinh nghiệm
thành công với công nghệ lúa lai Trung Quốc khuyến khích IRRI khám phá những
triển vọng và các vấn đề của việc sử dụng lúa lai để tăng sản lượng từ năm 1979.
Đến năm 1989,
hai dòng thương mại CMS là IR58025A và IR62829A với gen "WA",được tạo
ra tại IRRI và chia sẻ với các chương trình quốc gia trên toàn thế giới (Virmani et al, 1996). IR58025A ổn định trong vô sinh ở các
nước nhiệt đới, trong khi IR62829A có khả năng kết hợp tốt nhưng vô sinh của nó
là không đủ ổn định để sản xuất hạt giống lai ở nhiệt độ cao hơn.Trong những
năm gần đây, IRRI phóng thích mỗi năm từ 10-20 dòng di truyền CMS mới để cung
cấp dòng đầu nguồn cho các nước trồng lúa lai.
Công nghệ hạt
giống lai cho vùng nhiệt đới đã được phát triển tại IRRI phối hợp với các
chương trình quốc gia, và các gói công nghệ của Viện này có thể dẫn đến năng
suất hạt giống lai lên đến 2 tấn /ha ở vùng nhiệt đới.
e-FAO hổ trợ chương trình phát triển lúa lai
FAO xem xét công
nghệ lúa lai như một cách tiếp cận quan trọng để tăng sản lượng lúa gạo toàn
cầu để giúp đáp ứng nhu cầu lương thực của thế giới ngày càng tăng. Do đó, Tổ chức FAO đã hổ trợ chương trình phát
triển lúa lai ở các nước Mỹ Latinh và Caribê (ví dụ như Columbia
và Brazil ) và cung cấp hỗ
trợ thông qua Chương trình Hợp tác Kỹ thuật (TCP) hoạt động ở một số nước Đông
Nam Á như Bangladesh , Ấn Độ,
Myanmar , Philippines và Việt Nam . Hy vọng rằng lúa lai có thể đóng một vai trò
quan trọng trong cuộc chiến chống nạn đói trên thế giới trong tương lai gần.