Tình hình phát triển cây lúa lai ở Việt Nam
Sau sự thành
công của Trung Quốc trong việc thương mại hóa công nghệ lúa lai vào cuối những
năm 1970, IRRI đã làm sống lại nghiên cứu lúa lai của mình vào năm 1980, và
nhiều tiến bộ đã được triển khai bởi các chương trình được thực hiện ở nhiều
nước khác nhau như Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Cộng hòa Hàn
Quốc, Thái Lan, Indonesia, Myanmar, Brazil, Ai Cập, Colombia, Malaysia và nước
Cộng hòa Hồi giáo Iran - với sự hỗ trợ của FAO từ các cơ quan công cộng hoặc
khu vực tư nhân.
Hỗ trợ kỹ thuật
trong công nghệ lúa lai đã được cung cấp bởi IRRI và Trung Quốc với sự hỗ trợ
tài chính từ FAO, Trung tâm nghiên cứu và phát triển giống lúa lai Trung Quốc (CNHRRDC)
tại Hồ Nam đã tổ chức các khóa học quốc tế về sản xuất lúa lai và đào tạo hàng
trăm lượt nhà khoa học nghiên cứu lúa lai nước ngoài từ Ấn Độ, Việt Nam và
Colombia.
Tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam
a-Các bước phát triển
Nghiên cứu lúa lai ở Việt Nam bắt đầu từ cuối những năm 1970 tại Viện Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam . Từ năm 1983, Viện lúa quốc tế (IRRI) và
Viện lúa ĐBSCL (CLRRI) đã hợp tác để phát triển công nghệ lúa lai ở các tỉnh ĐBSCL. Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng lúa lai tăng năng suất 18-45%
(Nguyễn văn Luật et al, 1994).
Ở miền Bắc một
số giống lúa lai Trung Quốc như Shanyou 63, Shanyou Gui 99, Shanyou Quang 12 và
Boyou 64, đã được thực nghiệm ở vùng đồng bằng sông Hồng đã cho năng suất từ
6,5 đến 8,5 tấn /ha/vụ, tăng, từ 18 đến 21% so với các giống lúa thường.
Năm 1992, Chính
phủ Việt Nam
kêu gọi FAO hổ trợ để phát triển công nghệ lúa lai. Với
sự hỗ trợ của FAO cung cấp thông qua các dự án TCP/VIE/2251(A), tiến bộ đáng kể
đã được thực hiện kể từ đó trong canh tác lúa lai và sản xuất giống.
Diện tích lúa
lai tăng lên nhanh chóng từ 20 ha năm 1990 lên 600.000 ha vào năm 2003 với sự
gia tăng năng suất từ 20 đến 30% so các giống cải tiến đang sản xuất đại trà.
Hiện nay, các tổ chức tham gia vào nghiên
cứu lúa lai gồm Trung tâm nghiên cứu lúa lai- trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Viện nghiên cứu
lúa gạo ĐBSCL, Viện di truyền nông nghiệp.
Các nhà khoa học Việt Nam đã lựa chọn và sản xuất các
dòng bố, mẹ với nguồn gen trong nước, chẳng hạn như các dòng 103S, T1s-96, T4S,
T23S, T70S, T100, AMS27S (Trâm, 2007). Những
dòng này được sử dụng để sản xuất hạt giống F1 của Việt Nam như VL20 , VL24, TH3-3, TH3-4, HYT83, HYT92.
Giống lúa lai Việt Nam đầu tiên được trồng thương mại
hóa vào năm 1992, sản xuất trong một khu vực giới hạn dưới 200 ha.Với năng suất
rất thấp (trung bình là 302 kg/ha), tổng số lượng hạt giống F1 phát hành vào
năm 1992 được ghi nhận vào khoảng 52 tấn . Hạt giống F1 của Việt Nam giảm nhẹ
trong năm 1992-1995, nhưng sau đó phục
hồi và mở rộng một cách nhanh chóng sau khi đạt 1.920 ha vào năm 2006.
Năng suất hạt giống lúa lai Việt Nam được cải thiện đáng kể, từ 302 kg/ha năm
1992 đã tăng lên 2,2 tấn / ha
trong năm 2006 (gấp7lần).Các khu vực sản xuất chính của hạt giống lúa lai Việt Nam là các tỉnh
phía Bắc như Thanh Hóa, Hải Phòng, Hà Nam ,
Nam
Định.
Năm 2005, diện tích giống lúa lai Việt Nam đã
tăng lên 820 ha, cung cấp 60% nhu cầu giống lúa lai trong nước. Điều này cho
thấy lúa lai Việt Nam có
chất lượng, uy tín và được nông dân Việt Nam ưa chuộng. Phần còn lại được trồng các giống lai
Trung Quốc.
Sản lượng sản
xuất hạt giống lai ở Việt Nam
chỉ đạt 200-680 kg/ha vào năm 1992, nhưng công nghệ đã được cải thiện bởi nhiều
năm nghiên cứu trong nước sau đó.
Năm 1996, hạt
giống F1 đạt năng suất 2,1 tấn/ha đã thu được trên một khu vực rộng lớn. Sản lượng
sản xuất hạt giống F1với giống Boyou 64 cao nhất là 3 tấn/ha. Tuy
nhiên, vẫn còn một khoảng cách lớn giữa sản xuất hạt giống và sự cần thiết phải
nhanh chóng mở rộng diện tích canh tác. Việt Nam phụ thuộc vào hạt giống nhập
khẩu từ Trung Quốc và sự khan hiếm của hạt giống thích nghi với khu vực phía Nam
là hạn chế lớn để tăng cường sử dụng lúa lai.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã lai tạo ra Việt
Lai 20 vào năm 2004 đã được công nhận là giống quốc gia đầu tiên của Việt Nam.
Từ đó đến nay, có nhiều giống lúa lai khác được ra đời như TH3-3, TH5-1, TH 3-4
và Việt Lai 24, những giống này cũng đã được công nhận là giống quốc gia và
đang được sản xuất trên diện tích hàng chục nghìn héc-ta là những thành công
ban đầu của canh tác tự lai tạo và sản xuất hạt giống lúa lai tại Việt Nam.
Việt Nam đã tự sản xuất được hạt giống lúa
lai trong nước với quy mô lớn, tuy nhiên không đáp ứng được nhu cầu mở rộng
diện tích lúa lai nhanh chóng ở miền Bắc và miền Trung do đó phải phải chi
ngoại tệ nhập khẩu hạt giống lúa lai từ nước ngoài, chủ yếu là hạt giống lúa
lai Trung Quốc.
Trong năm 1998 Việt Nam đã nhập 4.106 tấn
lúa lai, năm 2006 nhập 13.316 tấn. Như vậy lượng giống lúa lai của Việt Nam chỉ
đáp ứng được 18,54% nhu cầu trong nước trong năm 2006 và tỷ lệ này còn tiếp tục
giảm trong những năm tới với nhiều lý do, trong đó chủ yếu là sự cạnh tranh về
chất lượng.
Việt Nam đã
mở rộng diện tích trồng lúa lai từ 11.000 ha năm 1992 lên 600.000 ha vào năm
2003 và 670.000 ha trong năm 2008.
Bảng Diện tích trồng lúa lai ở Việt Nam từ
1992-2006 (ha)
Sản
xuất hạt giống lai ở Việt Nam
|
||||
Năm
|
Mùa khô
|
Mùa mưa
|
||
Diện
tích (ha)
|
Năng
suất (kg / ha)
|
Diện
tích (ha)
|
Năng
suất (kg / ha)
|
|
1993
|
141,4
|
550
|
13,2
|
550
|
1994
|
52,0
|
630
|
71,0
|
400
|
1995
|
46,0
|
760
|
55,0
|
1 150
|
1996
|
169,0
|
2 100
|
98,0
|
1 150
|
Nguồn:
Trích từ Yin (1997).
|
Năm
|
Tổng số
|
Vụ Đông xuân
|
Vụ Hè thu
|
Tỷ lệ %
|
1992
|
11.094
|
1.156
|
9938
|
0,17
|
1993
|
34.648
|
17.025
|
17623
|
0,53
|
1994
|
60.100
|
45.400
|
14700
|
0,91
|
1995
|
73.500
|
39.600
|
33.900
|
1,09
|
1996
|
127.700
|
60.400
|
77.300
|
1,82
|
1997
|
187.800
|
110.800
|
77.000
|
2,65
|
1998
|
200.000
|
120.000
|
80.000
|
2,72
|
1999
|
233.000
|
127.000
|
106.000
|
3,04
|
2000
|
435.508
|
227.615
|
207.893
|
5,68
|
2001
|
480.000
|
300.000
|
180.000
|
6,41
|
2002
|
500.000
|
300.000
|
200.000
|
6,68
|
2003
|
600.000
|
350.000
|
250.000
|
8,06
|
2004
|
577.000
|
350.000
|
222.104
|
8,09
|
2005
|
601.944
|
350.000
|
251.944
|
8,21
|
2006
|
584.000
|
346.000
|
238.000
|
7,87
|
Nguồn: Cục Trồng trọt-BVTV,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2007.
Bảng Diện tích trồng lúa lai
ở Việt Nam
từ 1992-2006 (ha)
Năm
|
Tổng
số
|
Vụ
Đông xuân
|
Vụ
Hè thu
|
Tỷ
lệ %
|
1992
|
11.094
|
1.156
|
9938
|
0,17
|
1993
|
34.648
|
17.025
|
17623
|
0,53
|
1994
|
60.100
|
45.400
|
14700
|
0,91
|
1995
|
73.500
|
39.600
|
33.900
|
1,09
|
1996
|
127.700
|
60.400
|
77.300
|
1,82
|
1997
|
187.800
|
110.800
|
77.000
|
2,65
|
1998
|
200.000
|
120.000
|
80.000
|
2,72
|
1999
|
233.000
|
127.000
|
106.000
|
3,04
|
2000
|
435.508
|
227.615
|
207.893
|
5,68
|
2001
|
480.000
|
300.000
|
180.000
|
6,41
|
2002
|
500.000
|
300.000
|
200.000
|
6,68
|
2003
|
600.000
|
350.000
|
250.000
|
8,06
|
2004
|
577.000
|
350.000
|
222.104
|
8,09
|
2005
|
601.944
|
350.000
|
251.944
|
8,21
|
2006
|
584.000
|
346.000
|
238.000
|
7,87
|
Nguồn: Cục Trồng trọt-BVTV,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2007
Diện tích lúa
lai ở các vùng sinh thái khác nhau của Việt Nam, năm 2000 và 2006
Khu
vực
|
Năm
2000
|
Năm
2006
|
||
Diện
tích
(ha)
|
Tỷ
lệ
(%)
|
Diện
tích
(ha)
|
Tỷ
lệ
(%)
|
|
Miền núi phía Bắc
|
109500
|
25,21
|
135,000
|
22,93
|
Đồng bằng sông Hồng
|
225400
|
51,25
|
214000
|
22,93
|
Bắc Trung Bộ
|
99500
|
21,75
|
225.000
|
38.23
|
Tây Nguyên và
Nam Trung Bộ
|
7800
|
1,79
|
14000
|
2,43
|
442.200
|
100.00
|
588000
|
100.00
|
Nguồn:
Phòng số liệu thống kê Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Sự thành công của
lúa lai ở Việt Nam
phụ thuộc vào số lượng lớn hạt giống nhập khẩu từ Trung Quốc. Tuy
nhiên, các giống lúa lai được giới thiệu từ Trung Quốc không phù hợp với điều
kiện nhiệt đới của vùng đồng bằng sông Cửu Long ở phía Nam, nơi mà lúa lai và
các dòng bố mẹ từ IRRI có thể phát triển
rất tốt.
Lúa lai Trung
Quốc được đánh giá cao khả năng thích nghi trong khu vực miền núi phía Bắc Việt
Nam, nơi có điều kiện tương tự như ở miền nam Trung Quốc, và nông dân thu hoạch
lên đến 10 tấn/ha ở Diễn Châu (Nghệ An) và Phú Xuyên (Hà Tây ). Một
số giống lai Trung Quốc năng suất lên đến 14 tấn/ha ở Điện Biên (tỉnh Lai
Châu), 12 tấn /ha ở Hòa An (Cao Bằng) và 12,6 tấn / ha ở Văn Quan (tỉnh Lạng
Sơn).
Nhìn chung ở
Việt Nam lúa lai có khả năng phát triển tốt ở miền Bắc và miền Trung, ở miền
Nam việc trồng lúa lai không phát huy hiệu quả giống như các vùng trong phạm vi
từ vĩ độ 10 Nam đến vĩ độ 10 Bắc ở các nước Châu Á.
b-Những
tác động do trồng lúa lai ở Việt Nam
Một công trình điều tra nghiên cứu cấp quốc gia về sản
xuất cây lúa lai trong giai đoạn 1992-2007 được Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn triển khai đã đưa ra toàn cảnh về tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam
như sau:
+Ở cấp quốc
gia:
-Lúa lai đã mang lại khoảng 600.000 tấn lúa
tăng thêm hàng năm so với kịch bản không có
lai, tương đương với 2,1% tổng sản lượng lúa của đất nước và cung cấp đủ lương
thực cho 1,88 triệu dân.
-Sản
xuất hạt giống F1 đã
tạo ra một việc làm thêm khoảng 15.000 ngày công lao động cho lao động nông
thôn mỗi năm .
-Chi phí
cho nhập khẩu hạt giống lúa lai hàng năm khoảng 14,5 triệu USD (khoảng 1,55% kim ngạch xuất khẩu gạo) và
trong giai đoạn 1992-2006 đã chi thuê mướn chuyên gia, đào tạo cán bộ và mua
nguyên liệu đầu dòng hơn
5,5 triệu USD. Tuy nhiên, nó đã chỉ ra rằng lúa lai đã đóng góp rất ít vào việc cải
thiện tổng thể năng suất lúa trong nước
và tỷ lệ diện tích trồng giống lúa lai F1 ở mức 8 % vào năm 2006.
-Trong năm 1992, tổng diện tích dành cho
sản xuất lúa lai đã được ghi nhận tại 11.094 ha ,chiếm 0,17% tổng diện tích sản
xuất lúa. Cho đến năm 2006 lúa
lai được trồng trong khoảng 40 trong số 64 tỉnh trong cả nước. Đồng bằng sông Hồng dẫn đầu trong sản
xuất lúa lai với tỷ lệ 51,25% so cả nước trong năm 2000.Tỷ lệ này đã giảm đến
36 %vào năm 2006. Bắc Trung Bộ đã trở thành khu vực với
tỷ lệ cao nhất trong nước vào năm 2006 (38,23%).
-Trong vùng đồng bằng sông Hồng, tỉnh Ninh
Bình có diện tích lớn nhất lúa lai, 94.800
ha (năm 2000), nhưng khu vực này đã giảm còn 84.000 ha vào năm 2006 . Các
tỉnh như Hà Nam, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội, Vĩnh Phúc diện tích sản xuất lúa
lai giảm nhẹ, một số tỉnh khác có tốc độ tâng trưởng nhanh như tỉnh Hưng Yên hàng
năm tăng 14%, và tỉnh Bắc Ninh tăng 7,35% diện tích.
-Nhìn tổng thể ở đồng bằng sông Hồng trong
thời gian 2000-2006 diện tích lúa lai giảm trung bình 1,07%. Lý do có thể là:
1-Loại bỏ trợ cấp giá của Nhà nước.
2-Không ổn định nguồn hạt giống;
3-Có một số giống lúa thuần mới có năng
suất tương đương, chẳng hạn như Q5, Khang dân ;
4-Nông dân chuyển đối với giống cây có
năng suất trung bình nhưng chất lượng cao và giá trị, chẳng hạn như BắcThom 7.
-Nông dân ở miền Nam đã bắt đầu phát triển lúa lai
gần đây . Giống lúa lai Arize B-TE1 Ấn Độ được
khuyến cáo trồng do có nhiều lợi thế như có năng suất và sức đề kháng với điều
kiện đất đai không thuận lợi. Nông dân ở các tỉnh Bình Định, Quảng Nam ,
Kiên Giang đang ngày càng trở nên thuyết phục hơn
trong sử dụng lúa lai.
-Các giống lúa lai Trung Quốc không phù
hợp ở Miền Nam ,
nguồn giống lúa lai đơn điệu, phẩm chất hạt gạo giống B-TE1 có chất lượng kém
nên không hấp dẫn nông dân. Nông dân đang khao khát có nhiều giống lúa lai phù
hợp.
Nhìn tổng thể tác động của việc trồng lúa
lai ở Việt Nam
có những tác động như sau:
-Sản xuất hạt giống F1 tạo ra thêm việc
làm ở khu vực nông thôn.Theo khảo
sát mới nhất về sản xuất hạt giống F1 trong huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định vào tháng 4/ 2008, tổng
số lao động cần thiết cho 1 ha sản xuất hạt giống F1 khoảng 400 ngày cống. So với số
ngày công trung bình cho 1 ha lúa thường ở miền Bắc khoảng 300 ngày công. Mỗi
hai sản xuất giống lúa lai tạo được thêm 100 ngày công lao động ở nông thôn.
Đây là một cơ hội cho lao động thất nghiệp
ở khu vực nông thôn, đặc biệt là phụ
nữ và nông dân cũ. Sản xuất giống
F1 tạo ra khoảng 1,2 triệu ngày công lao động trong giai đoạn năm 1992 - 2006.
-Trong giai đoạn 1992-2006, tổng sản lượng
lúa của cả nước tăng từ 3,33 tấn / ha lên 4,89 tấn /ha. Bình quân tăng 0,1 %
mỗi năm, qua phân tích số liệu cho thấy lúa lai làm tăng năng suất trên phạm vi
cả nước không đáng kể do tỷ lệ diện tích trồng lúa lai ở Việt Nam còn quá thấp
(chỉ đạt xắp xỉ 8%).
Tính trung bình, lúa lai làm tăng sản
lượng 589.800 tấn lúa hàng năm trong giai đoạn 1992 -2006, hoặc 2,1% sản lượng lúa so với trường hợp
không có lúa lai.
-Lúa
lai góp phần cho an ninh lương thực ở Việt Nam :
Theo kết quả điều tra kinh tế xã hội của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong năm 2001, hàng năm bình quân đầu
người Việt Nam tiêu thụ 178 kg gạo. Trong năm 1992 số lượng gạo gia tăng do
trồng lúa lai nuôi sống được 101.359 người/năm. Trong năm 2006 nuôi sống được
2,9 triệu người. Trung bình thời kỳ 1992-2006 sự gia tăng sản lượng lúa lai
nuôi sống được 1,88 triệu người.
-Lúa
lai thu hút được các nguồn lực của đất
nước:
Để phát triển lúa lai, Chính phủ Việt Nam đã
chi tiền nhập khẩu hạt giống và hổ trợ sản xuất hạt giống, hỗ trợ giá hạt giống, kỹ thuật
đào tạo, nghiên cứu và phát triển .
Trong giai đoạn 1998-2006, số lượng nhập
khẩu hạt giống trung bình được ghi
nhận ở 11.172 tấn hàng năm, trị giá 14,5 triệu USD .Chi tiêu nhập khẩu hạt giống lai hàng năm chiếm 1,55% tổng thu nhập từ
xuất khẩu gạo.Việt Nam
đã dành tổng cộng 130,3 triệu USD
nhập khẩu hạt giống lúa lai trong giai đoạn 1998-2006.
+Tại
cấp trang trại
-Lúa lai tiêu thụ tăng thêm khoảng 30 kg phân
bón nguyên chất/ha (tương đương tăng 16 -17 % ). Trong đó gồm 29 kg đạm nguyên
chất.
-Về hiệu quả kinh tế, mỗi ha trồng lúa lai
tăng thêm thu nhập 27,82 USD trong vụ lúa xuân và 15,27 USD vào vụ mùa. Sự gia
tăng thu nhập thấp là do chi phí hạt giống lúa lai cao và giá lúa thương phẩm
thấp hơn lúa thường.
c- Những khó khăn, trở ngại của việc trồng
lúa lai ở Việt Nam
Thành công lớn của Trung Quốc về sản xuất
lúa lai là do công nghệ sản xuất hạt giống và hệ thống phân phối hạt giống có
hiệu quả.
Cây lúa lai phát triển chậm ở Việt Nam
chủ yếu là thiếu nguồn hạt giống lúa lai và chất lượng gạo của lúa lai còn
thấp.
Những khó khăn chính của việc trồng lúa
lai ở Việt Nam
là:
-Nguồn
cung cấp hạt giống không ổn định:
Với gần 80% hạt giống nhập khẩu từ Trung
Quốc, nông dân Việt Nam phụ thuộc vào hạt giống
cung cấp từ bên ngoài về số lượng, chủng loại, chất lượng và giá cả.
Nguồn cung hạt giống không đáp ứng kịp nhu
cầu do đó giá cả hạt giống nhập nội tăng cao do giống trong nước như TH3-3, VL
20…không đủ cung cấp.Nhiều khi giá hạt giống Trung Quốc tăng gấp đôi so với
bình thường như trong vụ Đông xuân 2005 và vụ Hè thu 2008.
Những hạn chế trong sản xuất hạt giống lúa
lai ở Việt Nam
là do:
-Nhiều công ty hạt giống thích nhập khẩu
hạt giống thay vì sản xuất trong bởi vì nó có nhiều lợi nhuận hơn và ít rủi ro.
- Năng lực hạn chế để mở rộng diện tích
sản xuất hạt giống lai. Do thiếu các nguyên liệu đầu dòng.
-
Hạn chế kiến thức về sản xuất hạt giống lai cũng là một vấn đề. Bên
cạnh rủi ro gây ra bởi khí hậu không thuận lợi, nghèo các dòng bố mẹ đã dẫn đến
năng suất thấp (thậm chí không thu hoạch), chủ yếu là do kiến thức hạn chế về
kỹ thuật.
- Sự phụ thuộc của các hạt giống bố mẹ
nhập khẩu từ Trung Quốc, Việt Nam
là không thể cung cấp những hạt
giống cha mẹ cần thiết cho sản xuất.
Chất
lượng hạt giống chưa đảm bảo
- Chất lượng hạt giống trong nước chưa bảo
đảm như trong năm 2008 có 46/219 mẫu kiểm tra hạt giống chưa đạt chất lượng,
lỗi chủ yếu ở khâu gia công tại ruộng giống và một số trường hợp các nguồn đầu
dòng lai chưa tinh khiết.
-Kiểm tra chất lượng hạt giống nhập từ
Trung Quốc năm 2006 cho thấy có 84,9 % lô hàng đạt chất lượng, 74,4% đạt yêu
cầu độ tinh khiết.
Nông
dân thích trồng giống nhập hơn giống trong nước
Tâm lý hàng hoá nhập khẩu tốt hơn so với
hàng hóa trong nước chấp nhận trả tiền gấp đôi để mua hạt giống từ Trung Quốc.
Thực tế có nhiều công ty vụ lợi dùng giống Việt Nam đóng mạc Trung Quốc để bán cho
nông dân với giá cao hơn.
Thiếu
dòng bố, mẹ tốt và thiếu giống tốt cho vụ mùa.
-Việt
Nam chỉ có thể sản xuất các dòng bố mẹ cho sản xuất hạt giống F1 gần đây, nhưng
chưa có thể sản xuất số lượng cần thiết. Thiếu các dòng bố, mẹ góp phần vào phụ thuộc vào hạt giống nhập
khẩu.
-Các
giống lúa Trung Quốc dể nhiểm bệnh đạo ôn trong vụ hè nên lúa lai hai dòng của
Việt Nam
có ưu thế hơn nhưng không đáp ứng đủ hạt giống.
d-Triển vọng lúa lai ở Việt Nam
-Góp phần cho an ninh lương thực
Lúa lai đã góp phần vào sản lượng lúa cao
hơn, do đó góp phần vào an ninh lương thực tại Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc
sản lượng gia tăng hơn 600.000 tấn mỗi
năm.Sản lượng gia tăng này nuôi được cho khoảng 1,88 triệu người (2,5% tổng dân
số) mỗi năm.Nếu không có công nghệ lúa lai, nó sẽ đòi hỏi phải tăng khoảng
138.000 ha để có được sản lượng gia tăng do lúa lai đem lại.
-Các mục tiêu phát triển
Với tình hình chậm phát triển lúa lai, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đặc biệt chú tâm vào việc thúc đẩy sản
xuất lúa lai và duy trì khu vực dành cho lúa lai. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài và Môi trường xem xét và báo cáo
về tình trạng hiện tại của đất nông nghiệp trong
quốc gia, đặc biệt là đất lúa (Nghị định 391/QĐ-TTg tháng 4/2008) .
Bên cạnh đó, Bộ NN & PTNT khuyến khích
các doanh nghiệp/công ty gia tăng diện tích nhân hạt giống lúa lai để tránh phải
nhập khẩu một số lượng lớn hạt giống .
Cục TT-BVTV (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đề xuất tăng chi tiêu cao
hơn 1,5-3 lần gia hạn dự án trong sản xuất lúa lai, tập trung vào sản xuất hạt
giống (NNVN, 2008) . Tập trung vào lúa lai nên mở rộng đến
khu vực phía Nam và miền Trung Việt Nam, đặc biệt là ở phía nam Trung Bộ là nơi mà lai có
lợi thế hơn.
Đối với các mục tiêu của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn - để tự cung tự cấp giống lai cho 70% diện tích lúa lai trong
năm 2010-2015 nhiều nỗ lực nên được thực hiện để mở rộng sản xuất hạt giống . Hỗ trợ tiếp tục của Chính phủ
sẽ cần thiết cho sự phát triển của lúa lai trong nước.
Các vấn đề lớn vẫn cần phải được giải
quyết bao gồm: thiếu giống lúa lai
chất lượng tốt, lợi thế của năng suất và khả năng thích ứng với điều kiện sinh
thái khác nhau, thiếu ngành công nghiệp nhân giống lúa mạnh của Nhà nước và tư
nhân, đào tạo nhân lực cho ngành sản xuất lúa lai, trang thiết bị nghiên cứu và
sản xuất, sự đồng thuận của lãnh đạo các cấp và nhân dân trong phát triển lúa
lai.