Tình hình phát triển cây lúa lai ở Việt Nam


Tình hình phát triển cây lúa lai ở Việt Nam

Sau sự thành công của Trung Quốc trong việc thương mại hóa công nghệ lúa lai vào cuối những năm 1970, IRRI đã làm sống lại nghiên cứu lúa lai của mình vào năm 1980, và nhiều tiến bộ đã được triển khai bởi các chương trình được thực hiện ở nhiều nước khác nhau như Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Cộng hòa Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Myanmar, Brazil, Ai Cập, Colombia, Malaysia và nước Cộng hòa Hồi giáo Iran - với sự hỗ trợ của FAO từ các cơ quan công cộng hoặc khu vực tư nhân. 
Hỗ trợ kỹ thuật trong công nghệ lúa lai đã được cung cấp bởi IRRI và Trung Quốc với sự hỗ trợ tài chính từ FAO, Trung tâm nghiên cứu và phát triển giống lúa lai Trung Quốc (CNHRRDC) tại Hồ Nam đã tổ chức các khóa học quốc tế về sản xuất lúa lai và đào tạo hàng trăm lượt nhà khoa học nghiên cứu lúa lai nước ngoài từ Ấn Độ, Việt Nam và Colombia.

Tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam

a-Các bước phát triển

Nghiên cứu lúa lai ở Việt Nam bắt đầu từ cuối những năm 1970 tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Từ năm 1983, Viện lúa quốc tế (IRRI) và Viện lúa ĐBSCL (CLRRI) đã hợp tác để phát triển công nghệ lúa lai ở các tỉnh ĐBSCL. Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng lúa lai tăng năng suất 18-45% (Nguyễn văn Luật et al, 1994). 
Ở miền Bắc một số giống lúa lai Trung Quốc như Shanyou 63, Shanyou Gui 99, Shanyou Quang 12 và Boyou 64, đã được thực nghiệm ở vùng đồng bằng sông Hồng đã cho năng suất từ 6,5 đến 8,5 tấn /ha/vụ, tăng, từ 18 đến 21% so với các giống lúa thường.
Năm 1992, Chính phủ Việt Nam kêu gọi FAO hổ trợ để phát triển công nghệ lúa lai. Với sự hỗ trợ của FAO cung cấp thông qua các dự án TCP/VIE/2251(A), tiến bộ đáng kể đã được thực hiện kể từ đó trong canh tác lúa lai và sản xuất giống. 
Diện tích lúa lai tăng lên nhanh chóng từ 20 ha năm 1990 lên 600.000 ha vào năm 2003 với sự gia tăng năng suất từ ​​20 đến 30% so các giống cải tiến đang sản xuất đại trà.
Hiện nay, các tổ chức tham gia vào nghiên cứu lúa lai gồm Trung tâm nghiên cứu lúa lai- trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Viện nghiên cứu lúa gạo ĐBSCL, Viện di truyền nông nghiệp.
Các nhà khoa học Việt Nam đã lựa chọn và sản xuất các dòng bố, mẹ với nguồn gen trong nước, chẳng hạn như các dòng 103S, T1s-96, T4S, T23S, T70S, T100, AMS27S (Trâm, 2007). Những dòng này được sử dụng để sản xuất hạt giống F1 của Việt Nam như VL20 , VL24, TH3-3, TH3-4, HYT83, HYT92.
Giống lúa lai Việt Nam đầu tiên được trồng thương mại hóa vào năm 1992, sản xuất trong một khu vực giới hạn dưới 200 ha.Với năng suất rất thấp (trung bình là 302 kg/ha), tổng số lượng hạt giống F1 phát hành vào năm 1992 được ghi nhận vào khoảng 52 tấn . Hạt giống F1 của Việt Nam giảm nhẹ trong năm 1992-1995, nhưng sau đó phục hồi và mở rộng một cách nhanh chóng sau khi đạt 1.920 ha vào năm 2006. 
Năng suất hạt giống lúa lai Việt Nam được cải thiện đáng kể, từ 302 kg/ha năm 1992 đã tăng lên 2,2 tấn / ha trong năm 2006 (gấp7lần).Các khu vực sản xuất chính của hạt giống lúa lai Việt Nam là các tỉnh phía Bắc như Thanh Hóa, Hải Phòng, Hà Nam, Nam Định. 
Năm 2005, diện tích giống lúa lai Việt Nam đã tăng lên 820 ha, cung cấp 60% nhu cầu giống lúa lai trong nước. Điều này cho thấy lúa lai Việt Nam có chất lượng, uy tín và được nông dân Việt Nam ưa chuộng. Phần còn lại được trồng các giống lai Trung Quốc. 
Sản lượng sản xuất hạt giống lai ở Việt Nam chỉ đạt 200-680 kg/ha vào năm 1992, nhưng công nghệ đã được cải thiện bởi nhiều năm nghiên cứu trong nước sau đó. 
Năm 1996, hạt giống F1 đạt năng suất 2,1 tấn/ha đã thu được trên một khu vực rộng lớn. Sản lượng sản xuất hạt giống F1với giống Boyou 64 cao nhất là 3 tấn/ha. Tuy nhiên, vẫn còn một khoảng cách lớn giữa sản xuất hạt giống và sự cần thiết phải nhanh chóng mở rộng diện tích canh tác. Việt Nam phụ thuộc vào hạt giống nhập khẩu từ Trung Quốc và sự khan hiếm của hạt giống thích nghi với khu vực phía Nam là hạn chế lớn để tăng cường sử dụng lúa lai.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã lai tạo ra Việt Lai 20 vào năm 2004 đã được công nhận là giống quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Từ đó đến nay, có nhiều giống lúa lai khác được ra đời như TH3-3, TH5-1, TH 3-4 và Việt Lai 24, những giống này cũng đã được công nhận là giống quốc gia và đang được sản xuất trên diện tích hàng chục nghìn héc-ta là những thành công ban đầu của canh tác tự lai tạo và sản xuất hạt giống lúa lai tại Việt Nam.
Việt Nam đã tự sản xuất được hạt giống lúa lai trong nước với quy mô lớn, tuy nhiên không đáp ứng được nhu cầu mở rộng diện tích lúa lai nhanh chóng ở miền Bắc và miền Trung do đó phải phải chi ngoại tệ nhập khẩu hạt giống lúa lai từ nước ngoài, chủ yếu là hạt giống lúa lai Trung Quốc.
Trong năm 1998 Việt Nam đã nhập 4.106 tấn lúa lai, năm 2006 nhập 13.316 tấn. Như vậy lượng giống lúa lai của Việt Nam chỉ đáp ứng được 18,54% nhu cầu trong nước trong năm 2006 và tỷ lệ này còn tiếp tục giảm trong những năm tới với nhiều lý do, trong đó chủ yếu là sự cạnh tranh về chất lượng.
Việt Nam đã mở rộng diện tích trồng lúa lai từ 11.000 ha năm 1992 lên 600.000 ha vào năm 2003 và 670.000 ha trong năm 2008.


Sản xuất hạt giống lai ở Việt Nam
Năm
Mùa khô
Mùa mưa

Diện tích (ha)
Năng suất (kg / ha)
Diện tích (ha)
Năng suất (kg / ha)
1993
141,4
550
13,2
550
1994
52,0
630
71,0
400
1995
46,0
760
55,0
1 150
1996
169,0
2 100
98,0
1 150
Nguồn: Trích từ Yin (1997).
 Bảng Diện tích trồng lúa lai ở Việt Nam từ 1992-2006 (ha)

Năm
Tổng số
Vụ Đông xuân
Vụ Hè thu
Tỷ lệ %
1992
11.094
1.156
9938
0,17
1993
34.648
17.025
17623
0,53
1994
60.100
45.400
14700
0,91
1995
73.500
39.600
33.900
1,09
1996
127.700
60.400
77.300
1,82
1997
187.800
110.800
77.000
2,65
1998
200.000
120.000
80.000
2,72
1999
233.000
127.000
106.000
3,04
2000
435.508
227.615
207.893
5,68
2001
480.000
300.000
180.000
6,41
2002
500.000
300.000
200.000
6,68
2003
600.000
350.000
250.000
8,06
2004
577.000
350.000
222.104
8,09
2005
601.944
350.000
251.944
8,21
2006
584.000
346.000
238.000
7,87
Nguồn: Cục Trồng trọt-BVTV, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2007.

Bảng Diện tích trồng lúa lai ở Việt Nam từ 1992-2006 (ha)
Năm
Tổng số
Vụ Đông xuân
Vụ Hè thu
Tỷ lệ %
1992
11.094
1.156
9938
0,17
1993
34.648
17.025
17623
0,53
1994
60.100
45.400
14700
0,91
1995
73.500
39.600
33.900
1,09
1996
127.700
60.400
77.300
1,82
1997
187.800
110.800
77.000
2,65
1998
200.000
120.000
80.000
2,72
1999
233.000
127.000
106.000
3,04
2000
435.508
227.615
207.893
5,68
2001
480.000
300.000
180.000
6,41
2002
500.000
300.000
200.000
6,68
2003
600.000
350.000
250.000
8,06
2004
577.000
350.000
222.104
8,09
2005
601.944
350.000
251.944
8,21
2006
584.000
346.000
238.000
7,87
Nguồn: Cục Trồng trọt-BVTV, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2007
Diện tích lúa lai ở các vùng sinh thái khác nhau của Việt Nam, năm 2000 và 2006

Khu vực
Năm 2000
Năm 2006
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Miền núi phía Bắc
109500
25,21       
135,000         
22,93
Đồng bằng sông Hồng                       
225400
51,25      
214000
22,93
Bắc Trung Bộ                                     
99500 
21,75       
225.000         
38.23
Tây Nguyên và Nam Trung Bộ            
7800         
1,79        
14000 
2,43

442.200      
100.00    
588000       
100.00
Nguồn: Phòng số liệu thống kê Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Sự thành công của lúa lai ở Việt Nam phụ thuộc vào số lượng lớn hạt giống nhập khẩu từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các giống lúa lai được giới thiệu từ Trung Quốc không phù hợp với điều kiện nhiệt đới của vùng đồng bằng sông Cửu Long ở phía Nam, nơi mà lúa lai và các dòng bố mẹ từ IRRI có thể  phát triển rất tốt.
Lúa lai Trung Quốc được đánh giá cao khả năng thích nghi trong khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, nơi có điều kiện tương tự như ở miền nam Trung Quốc, và nông dân thu hoạch lên đến 10 tấn/ha ở Diễn Châu (Nghệ An) và Phú Xuyên (Hà Tây ). Một số giống lai Trung Quốc năng suất lên đến 14 tấn/ha ở Điện Biên (tỉnh Lai Châu), 12 tấn /ha ở Hòa An (Cao Bằng) và 12,6 tấn / ha ở Văn Quan (tỉnh Lạng Sơn). 
Nhìn chung ở Việt Nam lúa lai có khả năng phát triển tốt ở miền Bắc và miền Trung, ở miền Nam việc trồng lúa lai không phát huy hiệu quả giống như các vùng trong phạm vi từ vĩ độ 10 Nam đến vĩ độ 10 Bắc ở các nước Châu Á.

b-Những tác động do trồng lúa lai ở Việt Nam

Một công trình điều tra nghiên cứu cấp quốc gia về sản xuất cây lúa lai trong giai đoạn 1992-2007 được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn triển khai đã đưa ra toàn cảnh về tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam như sau:
+Ở cấp quốc gia:
-Lúa lai đã mang lại khoảng 600.000 tấn lúa tăng thêm hàng năm so với kịch bản không có lai, tương đương với 2,1% tổng sản lượng lúa của đất nước và cung cấp đủ lương thực cho 1,88 triệu dân. 
-Sản xuất hạt giống F1 đã tạo ra một việc làm thêm khoảng 15.000 ngày công lao động cho lao động nông thôn mỗi năm .
-Chi phí cho nhập khẩu hạt giống lúa lai hàng năm khoảng 14,5 triệu USD  (khoảng 1,55% kim ngạch xuất khẩu gạo) và trong giai đoạn 1992-2006 đã chi thuê mướn chuyên gia, đào tạo cán bộ và mua nguyên liệu đầu dòng hơn 5,5 triệu USD. Tuy nhiên, nó đã chỉ ra rằng lúa lai đã đóng góp rất ít vào việc cải thiện tổng thể năng suất lúa trong nước và tỷ lệ diện tích trồng giống lúa lai F1 ở mức 8 % vào năm 2006.
-Trong năm 1992, tổng diện tích dành cho sản xuất lúa lai đã được ghi nhận tại 11.094 ha ,chiếm 0,17% tổng diện tích sản xuất lúa. Cho đến năm 2006 lúa lai được trồng trong khoảng 40 trong số 64 tỉnh trong cả nước. Đồng bằng sông Hồng dẫn đầu trong sản xuất lúa lai với tỷ lệ 51,25% so cả nước trong năm 2000.Tỷ lệ này đã giảm đến 36 %vào năm 2006. Bắc Trung Bộ đã trở thành khu vực với tỷ lệ cao nhất trong nước vào năm 2006 (38,23%).
-Trong vùng đồng bằng sông Hồng, tỉnh Ninh Bình có diện tích lớn nhất lúa lai, 94.800 ha (năm 2000), nhưng khu vực này đã giảm còn 84.000 ha vào năm 2006 . Các tỉnh như Hà Nam, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội, Vĩnh Phúc diện tích sản xuất lúa lai giảm nhẹ, một số tỉnh khác có tốc độ tâng trưởng nhanh như tỉnh Hưng Yên hàng năm tăng 14%, và tỉnh Bắc Ninh tăng  7,35% diện tích.
-Nhìn tổng thể ở đồng bằng sông Hồng trong thời gian 2000-2006 diện tích lúa lai giảm trung bình 1,07%. Lý do có thể là:
1-Loại bỏ trợ cấp giá của Nhà nước.
2-Không ổn định nguồn hạt giống;
3-Có một số giống lúa thuần mới có năng suất tương đương, chẳng hạn như Q5, Khang dân ;
4-Nông dân chuyển đối với giống cây có năng suất trung bình nhưng chất lượng cao và giá trị, chẳng hạn như BắcThom 7.
-Nông dân ở miền Nam đã bắt đầu phát triển lúa lai gần đây . Giống lúa lai Arize B-TE1 Ấn Độ được khuyến cáo trồng do có nhiều lợi thế như có năng suất và sức đề kháng với điều kiện đất đai không thuận lợi. Nông dân ở các tỉnh Bình Định, Quảng Nam, Kiên Giang đang ngày càng trở nên thuyết phục hơn trong sử dụng lúa lai.
-Các giống lúa lai Trung Quốc không phù hợp ở Miền Nam, nguồn giống lúa lai đơn điệu, phẩm chất hạt gạo giống B-TE1 có chất lượng kém nên không hấp dẫn nông dân. Nông dân đang khao khát có nhiều giống lúa lai phù hợp.
Nhìn tổng thể tác động của việc trồng lúa lai ở Việt Nam có những tác động như sau:
-Sản xuất hạt giống F1 tạo ra thêm việc làm ở khu vực nông thôn.Theo khảo sát mới nhất về sản xuất hạt giống F1 trong huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định vào tháng 4/ 2008, tổng số lao động cần thiết cho 1 ha sản xuất hạt giống F1 khoảng 400 ngày cống. So với số ngày công trung bình cho 1 ha lúa thường ở miền Bắc khoảng 300 ngày công. Mỗi hai sản xuất giống lúa lai tạo được thêm 100 ngày công lao động ở nông thôn.
Đây là một cơ hội cho lao động thất nghiệp ở khu vực nông thôn, đặc biệt là phụ nữ và nông dân cũ. Sản xuất giống F1 tạo ra khoảng 1,2 triệu ngày công lao động trong giai đoạn năm 1992 - 2006.
-Trong giai đoạn 1992-2006, tổng sản lượng lúa của cả nước tăng từ 3,33 tấn / ha lên 4,89 tấn /ha. Bình quân tăng 0,1 % mỗi năm, qua phân tích số liệu cho thấy lúa lai làm tăng năng suất trên phạm vi cả nước không đáng kể do tỷ lệ diện tích trồng lúa lai ở Việt Nam còn quá thấp (chỉ đạt xắp xỉ 8%).
Tính trung bình, lúa lai làm tăng sản lượng 589.800 tấn lúa hàng năm trong giai đoạn 1992 -2006, hoặc 2,1% sản lượng lúa so với trường hợp không có lúa lai.
-Lúa lai góp phần cho an ninh lương thực ở Việt Nam:
Theo kết quả điều tra kinh tế xã hội của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong năm 2001, hàng năm bình quân đầu người Việt Nam tiêu thụ 178 kg gạo. Trong năm 1992 số lượng gạo gia tăng do trồng lúa lai nuôi sống được 101.359 người/năm. Trong năm 2006 nuôi sống được 2,9 triệu người. Trung bình thời kỳ 1992-2006 sự gia tăng sản lượng lúa lai nuôi sống được 1,88 triệu người.
-Lúa lai thu hút được các nguồn lực của  đất nước:
Để phát triển lúa lai, Chính phủ Việt Nam đã chi tiền nhập khẩu hạt giống và hổ trợ sản xuất hạt giống, hỗ trợ giá hạt giống, kỹ thuật đào tạo, nghiên cứu và phát triển .
Trong giai đoạn 1998-2006, số lượng nhập khẩu hạt giống trung bình được ghi nhận ở 11.172 tấn hàng năm, trị giá 14,5 triệu USD .Chi tiêu nhập khẩu hạt giống lai hàng năm chiếm 1,55% tổng thu nhập từ xuất khẩu gạo.Việt Nam đã dành tổng cộng 130,3 triệu USD nhập khẩu hạt giống lúa lai trong giai đoạn 1998-2006.
+Tại cấp trang trại
-Lúa lai tiêu thụ tăng thêm khoảng 30 kg phân bón nguyên chất/ha (tương đương tăng 16 -17 % ). Trong đó gồm 29 kg đạm nguyên chất.
-Về hiệu quả kinh tế, mỗi ha trồng lúa lai tăng thêm thu nhập 27,82 USD trong vụ lúa xuân và 15,27 USD vào vụ mùa. Sự gia tăng thu nhập thấp là do chi phí hạt giống lúa lai cao và giá lúa thương phẩm thấp hơn lúa thường.

c- Những khó khăn, trở ngại của việc trồng lúa lai ở Việt Nam

Thành công lớn của Trung Quốc về sản xuất lúa lai là do công nghệ sản xuất hạt giống và hệ thống phân phối hạt giống có hiệu quả.
Cây lúa lai phát triển chậm ở Việt Nam chủ yếu là thiếu nguồn hạt giống lúa lai và chất lượng gạo của lúa lai còn thấp.
Những khó khăn chính của việc trồng lúa lai ở Việt Nam là:
-Nguồn cung cấp hạt giống không ổn định:
Với gần 80% hạt giống nhập khẩu từ Trung Quốc, nông dân Việt Nam phụ thuộc vào hạt giống cung cấp từ bên ngoài về số lượng, chủng loại, chất lượng và giá cả. 
Nguồn cung hạt giống không đáp ứng kịp nhu cầu do đó giá cả hạt giống nhập nội tăng cao do giống trong nước như TH3-3, VL 20…không đủ cung cấp.Nhiều khi giá hạt giống Trung Quốc tăng gấp đôi so với bình thường như trong vụ Đông xuân 2005 và vụ Hè thu 2008.
Những hạn chế trong sản xuất hạt giống lúa lai ở Việt Nam là do:
-Nhiều công ty hạt giống thích nhập khẩu hạt giống thay vì sản xuất trong bởi vì nó có nhiều lợi nhuận hơn và ít rủi ro.
- Năng lực hạn chế để mở rộng diện tích sản xuất hạt giống lai. Do thiếu các nguyên liệu đầu dòng.
 - Hạn chế kiến thức về sản xuất hạt giống lai cũng là một vấn đề. Bên cạnh rủi ro gây ra bởi khí hậu không thuận lợi, nghèo các dòng bố mẹ đã dẫn đến năng suất thấp (thậm chí không thu hoạch), chủ yếu là do kiến thức hạn chế về kỹ thuật.
- Sự phụ thuộc của các hạt giống bố mẹ nhập khẩu từ Trung Quốc, Việt Nam là không thể cung cấp những hạt giống cha mẹ cần thiết cho sản xuất.
Chất lượng hạt giống chưa đảm bảo
- Chất lượng hạt giống trong nước chưa bảo đảm như trong năm 2008 có 46/219 mẫu kiểm tra hạt giống chưa đạt chất lượng, lỗi chủ yếu ở khâu gia công tại ruộng giống và một số trường hợp các nguồn đầu dòng lai chưa tinh khiết.
-Kiểm tra chất lượng hạt giống nhập từ Trung Quốc năm 2006 cho thấy có 84,9 % lô hàng đạt chất lượng, 74,4% đạt yêu cầu độ tinh khiết.
Nông dân thích trồng giống nhập hơn giống trong nước
Tâm lý hàng hoá nhập khẩu tốt hơn so với hàng hóa trong nước chấp nhận trả tiền gấp đôi để mua hạt giống từ Trung Quốc. Thực tế có nhiều công ty vụ lợi dùng giống Việt Nam đóng mạc Trung Quốc để bán cho nông dân với giá cao hơn.
Thiếu dòng bố, mẹ tốt và thiếu giống tốt cho vụ mùa.
 -Việt Nam chỉ có thể sản xuất các dòng bố mẹ cho sản xuất hạt giống F1 gần đây, nhưng chưa có thể sản xuất số lượng cần thiết. Thiếu các dòng bố, mẹ góp phần vào phụ thuộc vào hạt giống nhập khẩu. 
-Các giống lúa Trung Quốc dể nhiểm bệnh đạo ôn trong vụ hè nên lúa lai hai dòng của Việt Nam có ưu thế hơn nhưng không đáp ứng đủ hạt giống.

d-Triển vọng lúa lai ở Việt Nam

-Góp phần cho an ninh lương thực
Lúa lai đã góp phần vào sản lượng lúa cao hơn, do đó góp phần vào an ninh lương thực tại Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc sản lượng gia tăng hơn 600.000 tấn mỗi năm.Sản lượng gia tăng này nuôi được cho khoảng 1,88 triệu người (2,5% tổng dân số) mỗi năm.Nếu không có công nghệ lúa lai, nó sẽ đòi hỏi phải tăng khoảng 138.000 ha để có được sản lượng gia tăng do lúa lai đem lại.
-Các mục tiêu phát triển
Với tình hình chậm phát triển lúa lai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đặc biệt chú tâm vào việc thúc đẩy sản xuất lúa lai và duy trì khu vực dành cho lúa lai. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài và Môi trường xem xét và báo cáo về tình trạng hiện tại của đất nông nghiệp trong quốc gia, đặc biệt là đất lúa (Nghị định 391/QĐ-TTg tháng 4/2008) . 
Bên cạnh đó, Bộ NN & PTNT khuyến khích các doanh nghiệp/công ty gia tăng diện tích nhân hạt giống lúa lai để tránh phải nhập khẩu một số lượng lớn hạt giống . Cục TT-BVTV (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đề xuất tăng chi tiêu cao hơn 1,5-3 lần gia hạn dự án trong sản xuất lúa lai, tập trung vào sản xuất hạt giống (NNVN, 2008) . Tập trung vào lúa lai nên mở rộng đến khu vực phía Nam và miền Trung Việt Nam, đặc biệt là ở phía nam Trung Bộ là nơi mà lai có lợi thế hơn.
Đối với các mục tiêu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - để tự cung tự cấp giống lai cho 70% diện tích lúa lai trong năm 2010-2015 nhiều nỗ lực nên được thực hiện để mở rộng sản xuất hạt giống . Hỗ trợ tiếp tục của Chính phủ sẽ cần thiết cho sự phát triển của lúa lai trong nước. 
Các vấn đề lớn vẫn cần phải được giải quyết bao gồm: thiếu giống lúa lai chất lượng tốt, lợi thế của năng suất và khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái khác nhau, thiếu ngành công nghiệp nhân giống lúa mạnh của Nhà nước và tư nhân, đào tạo nhân lực cho ngành sản xuất lúa lai, trang thiết bị nghiên cứu và sản xuất, sự đồng thuận của lãnh đạo các cấp và nhân dân trong phát triển lúa lai.