Thực trạng sản xuất Cây lúa trên thế giới ngày nay
Cảnh thu hoạch lúa tại Việt Nam
Giới thiệu khái quát
Lúa là loài
thực vật một lá mầm (monocot) thuộc Oryza sativa (Lúa Châu Á) hoặc Oryza glaberrima (Lúa Châu Phi). Là một loại ngũ cốc làm lương thực quan trọng
cho khoảng ½ dân số của thế giới, đặc biệt là ở Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Lúa là loài cây
lương thực có sản lượng đứng hàng thứ ba trên thế sau ngô, và lúa mì. Tuy nhiên, gạo là lương thực
chính cho khoảng một nửa dân số thế giới trong tất cả các thời kỳ lịch sử.
Cây ngô tuy
đứng đầu về sản lượng nhưng nó được sử dụng với nhiều mục đíc khác nhau, trước
hết làm thức ăn cho gia súc, sau đó là dùng trong công nghiệp và một phần nhỏ
làm thức ăn cho người. Trái lại gạo được dùng gần toàn bộ để làm lương thực cho
người do đó nó là nguồn lương thực chính cho ½ dân số thế giới. Lượng calori từ
gạo cung cấp hơn 1/5 tổng lượng calori cần thiết trong dinh dưỡng của con người
trên toàn thế giới.
Có rất nhiều
giống lúa đáp ứng những yêu cầu về khẩu vị ở mỗi vùng khác nhau trên thế giới.
Do tầm quan trọng của gạo như một loại lương thực chủ yếu, sản xuất lúa gạo còn
gắn liền với những nền văn hóa trồng lúa lâu đời ở nhiều khu vực khác nhau trên
thế giới.
Ở các nước
trồng lúa truyền thống, nghề trồng lúa gắn liền với nền văn hóa địa phương như
xóm làng, lễ hội…Ngày nay nghề trồng lúa phù hợp với các quốc gia đang phát
triển vì sự mưu sinh của đông đảo lực lượng nông dân. Thường được duy trì và
phát triển ở các quốc gia vùng nhiệt đới, có lượng mưa cao và chi phí lao động
thấp.
Mặc dù các
giống lúa trồng phát sinh từ Châu Á và Châu Phi, nhưng hiện nay cây lúa được
phát triển ở tất cả các Châu lục khác có điều kiện khí hậu và thời tiết thích
hợp. Ví dụ cây lúa ngày nay còn được mở rộng sang Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Úc.
Việc di cư dân
số giữa các khu vực, các Châu lục, dân số gia tăng và thương mại hóa toàn cầu
làm cho cây lúa ngày càng mở rộng diện tích trồng ở những nơi có điều kiện nhằm
giải quyết vấn đề an ninh lương thực ở mỗi nước trồng lúa và là nguo2n thu nhập
chính của đại đa số nông dân ở các nước đang phát triển.
Về giá trị dinh
dưỡng, trong 100 g gạo trắng hạt dài có chứa các thành phần dinh dưỡng như sau:
Năng lượng
|
1.527 kJ (365 kcal)
|
Axit pantothenic (B 5)
|
1,014 mg (20%)
|
Carbohydrates
|
80 g
|
Vitamin B 6
|
0,164 mg (13%)
|
- Đường
|
0,12 g
|
Calcium
|
28 mg (3)
|
- Chất xơ
|
1,3 g
|
Ủi
|
0,80 mg (6%)
|
Chất béo
|
0,66 g
|
Magnesium
|
25 mg (7%)
|
Protein
|
7,13 g
|
Mangan
|
1,088 mg (52%)
|
Nước
|
11,61 g
|
Photpho
|
115 mg (16%)
|
Thiamine (vit. B 1)
|
,0701 Mg (chiếm 6%)
|
Kali
|
115 mg (2%)
|
Riboflavin
(vit. B 2)
|
0,0149 mg (1%)
|
Kẽm
|
1,09 mg (11%)
|
Niacin
(vit. B 3)
|
1,62 mg (11%)
|
Gạo là một
nguồn cung cấp protein và thức ăn chủ yếu ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng gạo không
phải là một loại lương thực giàu protein: nó không chứa tất cả các axit amin thiết yếu với số lượng cần thiết cho
sức khỏe tốt, nên khi ăn cơm hoặc các dạng thực phẩm từ bột gạo cần được kết
hợp với các nguồn protein khác, chẳng hạn như các loại đậu, cá, thịt…
Gạo là lương
thực chủ yếu của nhiều nước, có 17 quốc gia ở Châu Á và Thái Bình Dương, 9 quốc
gia ở Bắc và Nam Mỹ và 8 quốc gia ở Châu Phi dùng gạo cung cấp trên 90% nhu cầu calori từ chất
bột như Philippines, Việt Nm, Campuchia, Ấn Độ…Gạo cung cấp gần 20% nguồn năng lượng từ
thực phẩm cho con người trên toàn thế giới, trong khi đó lúa mì cung cấp 19% và
ngô là 5%.
Lịch sử thuần hoá và canh tác lúa trên
thế giới
Lịch sử cổ đại
Cây lúa được trồng rộng rải và hình thành
những nền văn minh lúa nước xuất hiện ở Châu Á khoảng 4.000 năm và ở Châu Phi khoảng 3.500 năm trước đây.
-Cây lúa trồng ở Châu Á
Các nhà khoa
học hiện đại công nhận rằng cây lúa được thuần hóa từ cây lúa hoang dại thành
cây lúa trồng xuất hiện đầu tiên trong khu vực đồng bằng thung lũng của sông
Dương Tử ở Trung Quốc . Số lượng lớn các di chỉ lúa hoang dại trong trầm tích ở
thung lũng Diaotonghuan (TQ) có niên đại khoảng12.000-11.000 năm trước Công
nguyên (TCN). Những thay đổi dạng hình của lúa hoang ở Diaotonghuan có niên đại
từ 10.000-8.000 năm, cho thấy rằng trong thời gian này cây lúa hoang bắt đầu
được thuần hóa.
Ngay sau đó hai
chính giống Indica và Japonica / Sinica lúa đã được trồng ở Trung tâm Trung
Quốc. Trong 3 thiên niên kỷ TCN đã
mở rộng nhanh chóng nghề trồng lúa vào lục địa Đông Nam Á và về phía Tây qua Ấn Độ và Nepal .
Các hóa thạch cây
lúa tìm thấy ở Ấn Độ sớm nhất từ 7.000-6.000 năm TCN, mặc dù hiện nay được chấp
nhận rộng rải là cây lúa trồng ở Ấn Độ trong khoảng 3000-2500 TCN vớ những phát
hiện các nền văn minh lúa nước ở các khu vực thung lũng sông Ấn (Indus ).
Hiện nay các
loài lúa hoang dại được xem là tổ tiên của loài lúa trồng vẩn còn mọc hoang ở Assam và Nepal . Nó dường như đã xuất hiện
khoảng 1.400 TCN ở miền Nam Ấn Độ sau khi cây lúa được thuần
hoá trong vùng đồng bằng phía bắc.
Ngày nay, phần
lớn sản lượng gạo thế giới được sản xuất ở Trung Quốc , Ấn Độ , Indonesia , Pakistan , Bangladesh , Việt Nam , Thái Lan , Myanmar , Philippines và Nhật Bản. Châu Á hiện nay vẫn còn chiếm 92% tổng sản
lượng lúa gạo của thế giới.
-Cây lúa trồng ở Châu
Phi
Lúa Châu Phi đã
được gieo trồng cách nay khoảng 3.500 năm. Giữa 1500 và 800 năm TCN, Oryza glaberrima lan tỏa từ trung tâm khởi phát ban đầu của nó là đồng bằng sông Niger River và mở rộng đến Senegal . Tuy nhiên, nó không bao giờ
phát triển xa khu vực ban đầu của nó do loài lúa Châu Phi là loại hạt cốc chưa
thật hấp dẫn.
Loài lúa
Châu Phi dần về sau này bị cạnh tranh bởi loài lúa Châu Á ngay trên lục địa
Châu Phi. Luồng thứ nhất mang các giống lúa cổ đại Châu Á vào Châu Phi bở người
Á Rập từ bờ biển phía Đông Địa Trung Hải và khoảng giữa thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ
thứ 11 sau Công nguyên. Nó đã giúp Châu Phi chinh phục nạn đói của năm 1203. Luồng thứ hai du nhập
các giống lúa Châu Á cận đại vào Châu Phi do các nhà thám hiểm và do thám thuộc
địa người Bồ Đào Nha đã mang các giống từ Ấn Độ và Đông Nam do họ thu thập được
trong các hải trình vào đến Châu Á và mang các giống lúa Châu Á vào Châu Phi
trong giữa thế kỷ 16. Luồng thứ ba nhập các giống lúa Châu Á vào Châu Phi sau
khi Viện lúa Quốc tế IRRI đã tạo ra hàng loạt các giống lúa cải tiến bắt đầu từ
giống lúa IR8 được phóng thích từ năm 1966.
Cây lúa Châu Á
có phẩm chất gạo ngon hơn lúa Châu Phi nhưng khó thích nghi hơn lúa Châu Phi
nên cũng phát triển chậm chạp trên lục địa này.
-Cây lúa trồng ởTrung Đông
Ở Iraq cây lúa gốc Châu Á được trồng ở một số khu
vực ở miền nam Iraq . Với sự nổi lên của Hồi giáo,
nó di chuyển về phía Bắc đến Nisibin, bờ phía Nam của biển Caspian và sau đó vượt ra
ngoài thế giới Hồi giáo đến thung lung của sông Volga . Ở Ai Cập , lúa gạo chủ yếu được trồng
ở đồng bằng sông Nile . Ở Palestine , ngày nay là Israel , lúa được trồng ở thung lũng Jordan . Lúa cũng được trồng ở Yemen .
-Cây lúa trồng ở Châu Âu
Người Moor đã
mang các giống lúa Châu Á đến bán đảo Iberia trong thế kỷ thứ 10. Theo ghi chép, nó đã được
trồng ở Valencia và Majorca . Trong Majorca , Trồng lúa dường như đã
dừng lại sau khi người Kitô giáo chinh phục, bài bác ăn cơm từ gạo ở Châu Á (giả thuyết
này không chắc chắn).
Người Hồi giáo
cũng mang gạo Sicily, nơi mà nó là loại cây trồng quan trọng lâu trước khi nó được ghi
nhận ở vùng đồng bằng Pisa (1468), hoặc trong đồng bằng Lombard (1475), nơi canh tác
của nó được thúc đẩy bởi Ludovico Sforza, Công tước của Milan, và chứng minh
trong các trang trại mô hình của ông.
Sau thế kỷ 15,
gạo lan rộng khắp nước Ý và sau đó đến Pháp , sau đó lan truyền đến tất cả các Châu lục trong thời kỳ
thăm dò thuộc địa ở Châu Âu.
-Cây lúa trồng ở vùng Caribbean
và Châu
Mỹ La Tinh
Lúa trồng không
có nguồn gốc bản địa ở Châu Mỹ và đã được mang tới Châu Mỹ La Tinh và vùng vịnh Caribbean bởi thực dân
Châu Âu khi
chiếm đóng thuộc địa này từ đầu thế kỷ thứ 16. Thực dân Tây Ban Nha giới thiệu các giống lúa
Châu Á được trồng ở Châu Phi vào Mexico trong những năm 1520s tại Veracruz và Bồ Đào Nha giới thiệu các giống lúa Châu Á đến Brazil .
Người nô lệ châu Phi đóng vai trò chính trong việc trồng
trọt cây lúa ở Tân lục địa, trong thời kỳ đầu ở Châu Mỹ trồng giống lúa Châu
Phi là chủ yếu do chính những người nô lệ mang hạt giống từ Châu Phi đến Châu
Mỹ và sau đó chính thực dân Châu Âu mang các giống lúa do họ chọn ra từ các
thuộc địa ở Châu Á sang trồng ở các thuộc địa ở Châu Mỹ.
Hiện nay một số
Công ty ở Bắc Mỹ đang tích cực vận động các thổ dân ở Miền Đông Hoa Kỳ khai
thác giống lúa hoang dại không có liên di truyền với hai loài lúa trồng Châu Á
và Châu Phi để dùng gạo trong hệ thống nhà hàng và khách sạn nghỉ dưỡng.
-Lúa trồng ở Hoa Kỳ
Năm 1694, cây
lúa được nhập vào Bang Nam Carolina, có thể có nguồn gốc từ Madagascar . Ở Hoa Kỳ, thực dân Bang Nam Carolina và Georgia phát triển và tích lũy được của cải
rất lớn từ các lao động nô lệ thu được từ Senegambia khu vực Tây Phi và từ ven biển Sierra Leone .
Cây lúa vùng
Đông Nam Mỹ trở nên ít lợi nhuận hơn với
sự mất mát của lao động nô lệ sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ, và cuối cùng mất đi
vào cuối thế 20.
Hiện nay cây
lúa đang phục hồi và mở rộng diện tích ở Hoa kỳ nhằm vào mục đích thương mại. Người
Mỹ chính thống rất ít ăn cơm, một phần sản lượng gạo ở Mỹ được bán ở nội địa
dành cho người Mỹ gốc Chây Á và Châu Phi, phần còn lại được xuất khẩu theo các
gói viện trợ lương thực.
Ở miền Nam Hoa Kỳ , lúa đã được trồng ở phía nam
các Bang Arkansas , Louisiana , và phía đông Texas kể từ giữa thế kỷ 19.
Trong những năm
gần đây sản xuất lúa gạo đã tăng lên ở Bắc Mỹ, đặc biệt là trong đồng
bằng sông Mississippi ở các
khu vực thuộc các bang Arkansas và Mississippi .
Hơn 100 giống
lúa được sản xuất thương mại chủ yếu trong sáu tiểu bang (Arkansas , Texas , Louisiana , Mississippi , Missouri , Và California ) ở Mỹ.
Sản xuất lúa
gạo ở Mỹ (2006) có giá trị 1,88 tỷ
USD, khoảng một nửa được xuất khẩu. Gạ Mỹ cung cấp khoảng 12% của gạo thương mại thế giới. Phần lớn sử dụng trong nước.
Ở Mỹ gạo là thực phẩm sử dụng
trực tiếp (58%), trong khi 16% được sử dụng trong thực phẩm chế biến và bia,10%
còn lại dùng làm thức ăn chăn nuôi.
Cây lúa trồng ở Úc
Lúa là một
trong những cây trồng ở Úc do người định cư từ Anh mang đến, là những người người đã có
kinh nghiệm phát triển với các ruộng lúa ở Châu Mỹ và tiểu lục địa Ấn Độ.
Mặc dù nỗ lực để
trồng lúa ở phía Bắc nước Úc đã thực hiện trong nhiều năm, họ đã luôn thất bại vì độc
tố sắt và mangan trong đất trồng lúa ở Úc và những
thiệt hại do sâu bệnh.
Trong những năm
1920, cây lúa ở Úc được xem như là một cây trồng có thể thủy lợi hóa trong phạm vi lưu vực sông Murray-Darling vốn không thuận
lợi cho
việc trồng hoa quả và quá khó phát triển cây lúa mì.
Mặc dù lượng
mưa thấp ở vùng ôn đới của Úc nhưng đầu tư thủy lợi vẩn còn rẽ, cây lúa phục
hồi trở lại ở khu vực Riverina vào năm 1951.
Ngay khi Úc sản xuất lúa gạo vượt yêu
cầu tiêu thụ ở trong nước, gạo được xuất khẩu Nhật Bản đã trở thành một nguồn lớn
ngoại tệ.
Các ngành công
nghiệp lúa gạo của Úc là một cơ hội, với diện tích được trồng khác nhau được
phân bố nước từ các công trình thủy lợi ở Murray và ở Murrumbidgee .
Lịch sử cận đại
Từ năm 1961 đến
2002, bình quân lượng gạo tiêu thụ đầu người trên thế giới tăng thêm 40%. Lúa là cây trồng quan trọng nhất trong Châu Á . Ví dụ ở Cam-pu-chia có 90% của tổng số diện tích đất
nông nghiệp được sử dụng để trồng lúa.
Năng suất lúa từ dưới 1 tấn/ha ở vùng rất ít
lượng mưa nhưng không được tươi cho đến hơn 10 tấn /ha trong các hệ thống thâm
canh có tưới nước ở vùng ôn đới.
Cây lúa phát triển trên nhiều hệ sinh thái
khác nhau, những nơi trồng được cây lúa thường trồng các loại cây khác không có
hiệu quả ví dụ như ở các đầm lầy.
Trên thế giới hiện nay cây lúa được phát
triển trên 4 kiểu môi trường chính, đó là: vùng chủ động tưới tiêu, vùng đồng
bằng lệ thuộc nước trời, vàng cao lệ thuộc nước trời vùng đầm lầy ngập lũ sâu.
-Môi trường chủ động tươi tiêu
Trên thế giới, khoảng 80 triệu ha được tưới
tiêu vùng đồng bằng lúa cung cấp 75% sản lượng gạo của thế giới. Các vùng này còn là hệ thống sản xuất
lúa gạo quan trọng nhất cho an ninh lương thực thế giới, đặc biệt là ở các nước
châu Á. Cây lúa trồng trong điều
kiện tưới tiêu chiếm
khoảng 40% diện tích cây trồng chủ động tưới tiêu và 30% diện tích vùng
nước ngọt của thế giới.
Hiện nay, năng suất trung bình vùng chủ động
tưới tiêu khoảng 5,4 tấn/ha. Tại
các vùng khí hậu ôn đới, lúa chủ động tưới tiêu trồng duy nhất 1 vụ trong năm với
năng suất cao có thể đạt 8-10 tấn / ha trở lên.
-Môi trường đồng bằng lệ thuộc nước trời
Lúa vùng đồng bằng lệ thuộc nước trời phổ
biến ở Châu Á và Châu Phi. Ở vùng này cây lúa được trồng vào mùa mưa, dể bị rũi
ro do khô hạn, ngập úng và gió, bão.
Khoảng 60 triệu ha của cây lúa vùng đất lệ thuộc nước trời cung cấp khoảng
20% sản lượng gạo của thế giới.
Có khoảng 27 triệu ha lúa vùng thấp lệ thuộc
nước trời thường xuyên bị ảnh hưởng bởi hạn hán. Khoảng 20 triệu ha có thể bị
ngập lụt không kiểm soát được, từ lũ quét trong thời gian tương đối ngắn cho đến
các khu vực nước ngập sâu có thể hơn 100 cm nước trong vài tháng.
Vùng thấp
lệ thuộc nước trời là vùng tập trung đông đúc dân cư, là nơi có nhiều người
nông dân nghèo đói nhất thuộc khi vực Châu
Phi, Nam Á, các bộ phận của khu vực Đông Nam Á . Bởi
vì môi trường trồng lúa rất khó khăn, chi phí cao và sản lượng bấp bênh. Vùng
này ít được đầu tư phân bón nên năng suất rất thấp (1-2,5 tấn / ha) và đa số gia
đình nông dân vẫn còn trong cảnh nghèo đói.
-Môi trường vùng cao lệ thuộc nước trời
Lúa nương được trồng trong điều kiện khô hạn
trong hệ thống canh tác hỗn hợp mà không có thủy lợi và không có cày bừa. Vùng này chiếm khoảng 14 triệu ha, với
nhiều khó khăn gây ra năng suất thấp (thường chỉ có khoảng 1 tấn/ha), đóng góp
chỉ có 4% tổng sản lượng gạo của thế giới.
Khoảng 70% diện
tích lúa nương trên thế giới ở Châu Á. Có những vùng trồng lúa nương nổi
tiếng như ở vùng núi của Philippies, vùng núi ở tỉnh Hà Giang thuộc miền Bắc
Việt Nam .
Ở Trung và Tây Phi, vành đai lúa Châu Phi , các khu vực miền núi chiếm khoảng
40% diện tích trồng lúa và sử dụng khoảng 70% nông dân trồng lúa của khu vực
này.
-Môi trường ngập sâu theo mùa
Lúa ngập sâu hay lúa nổi
thuộc loài lúa Châu Á (Oryza sativa) phát
triển trong điều kiện ngập nước sâu từ 50 cm (20 in) trở lên với thời gian ngập
ít nhất khoảng một tháng.
Nhiều hơn 100 triệu người dân ở miền Nam và Đông Nam Á dựa vào cây
lúa nổi để sinh sống. Có hai dạng lúa chịu ngập là lúa cao cây truyền thống và lúa
nổi.
-Lúa cao cây truyền thống
là những giống được trồng ở những vùng vào mùa lũ có độ sâu nước từ 50-100 cm trong
khoảng thời gian vài tháng trong chu kỳ sinh trưởng của chúng.
-Lúa nổi phát triển trong
nước sâu hơn 100 cm, thân có thể kéo dài 3-4 m tùy theo độ ngập và phần lớn
thân cây lúa bị dìm trong nước, cây lúa vươn khỏi măt nước nhờ các lóng của
chúng chứ khí như những chiếc phao để phần trên ngọn nổi trên mặt nước.
Lúa chịu ngập và lúa nổi được tìm thấy trong
môi trường dễ bị lũ lụt, ở các khu vực tích nước định kỳ vào mùa mưa lũ.
Vùng Đồng Tháp Mười ở đồng bằng Sông Cữu
Long trước năm 1980 vẩn trồng phổ biến các giống chịu ngập và lúa nổi, sau này
được chuyển thành hai vụ thâm canh lúa cải tiến trong mùa khô. Hàng ngàn giống
lúa chịu ngập và lúa nổi ở ĐBSCL của Việt Nam bị mất đi trong 4 thập kỷ qua,
chúng là nguồn gen quí để lai tạo ra các giống lúa chịu ngập sống được trong
môi trường trầm thủy.
Các giống lúa Indica là những loại chính của cây lúa chịu ngập và lúa nổi,
mặc dù giống Japonica đã được tìm thấy ở Miến Điện , Bangladesh và Ấn Độ .
Ngày nay, lúa
hoang ở Châu Mỹ được Zizania palustris không có liên quan di truyền với hai loài lúa
trồng Châu Á và Châu Phi được các Công ty Mỹ và Canada vận động thổ dân
Bắc Mỹ trồng để kinh doanh nguồn thực phẩm lúa hoang dại cổ phục vụ cho du lịch
và nghỉ dưỡng.
Một số ghi nhận của cây lúa thế giới sau
năm 2000
Tiếp tục sử dụng các giống cải tiến lúa mới
Có bốn loại dạng gạo chính được giao dịch trên toàn thế giới: gạo indica, gạo japonica, gạo thơm và nếp. Các giống lúa
khác nhau được hoán đổi cho nhau tùy vào thị trường tiêu thụ, do đó mỗi giống
lúa trồng tăng hay giảm do khả năng tiêu thụ của chúng. Hiện nay trên thế giới
rất đa dạng giống lúa trồng, có khoảng 400.000 giống lúa cụ thể khác nhau và
thường xuyên được trồng khoảng 40.000 giống.
Bộ giống lớn nhất từ IRRI ở Philippines với khoảng 100.000 giống trong ngân
hàng gen. Mỗi quốc gia còn giữa lại một số giống lúa củ riêng mình, tuy nhiên
hiện nay có trên 95% các giống lúa mùa địa phương đã bị tiệt chủng và mất đi
vĩnh viển như các giống lúa mùa chịu ngập và các giống lúa nổi ở Việt Nam.
Gạo thơm có mùi thơm và hương vị xác định, các giống gạo thơm chất lượng
cao còn rất ít ở các nước Châu Á như gạo thơm Thái Lan, gạo Basmati, Patna ở
Nam Á, gạo Nàng thơm Chợ Đào ở huyên Cần Đước, tỉnh Long An-Việt
Nam, và một số giống lúa thơm cải tiến của Mỹ như Jasmin 85, Texmati…
Cây lúa mới của Châu Phi (NERICA) cho năng suất cao và thích nghi môi
trường khô hạn là một triển vọng mới để cải thiện năng suất lúa và bảo đảm an
ninh lương thực ở Tây Phi.
Hàng loại giống lúa cải tiến chất lượng cao và các giống cao sản được tạo
ra từ IRRI và nhiều Viện nghiên cứu, trường Đại Học đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của cuộc cách mạng xanh trên toàn cầu.
Những cố gắng mới đầu tư vào cây lúa lai siêu năng suất cao của Trung Quốc,
cây lúa Super rice và cây lúa C4 của IRRI đang được triển khai với những thành
quả phấn khởi trong bước đầu.
Trong sự hiện diện của phân bón nitơ, và quản lý cây trồng thâm canh, những
giống lúa mới này làm tăng năng suất gấp 2-3 lần so với các giống lúa mùa
truyền thống.
Dịch hại ngày càng phức tạp
Nhiều loài dịch
hại trên cây lúa làm giảm năng suất hoặc giá trị hạt gạo. Dịch hại lú bao gồm
nhiều loài như cỏ dại, côn trùng, nấm, vi khuẩn, vi rus, tuyến trùng, ốc (ốc bươu
vàng), động vật gặm nhấm, và các loài chim. Một loạt các yếu tố có thể
góp phần tạo sự bộc phát dịch hại, bao gồm cả việc lạm dụng thuốc trừ sâu, tướu tiêu không phù
hợp, dùng phân bón hóa học với liều cao, đặc biệt là phân đạm.
Hiện nay, quản
lý dịch hại lúa bao gồm các kỹ thuật tổng hợp, giống kháng sâu bệnh, điều khiển
hệ sinh thái và cuối cùng là dùng thuốc BVTV.
IRRI đã chứng
minh trong năm 1993 giảm 87,5% trong việc sử dụng thuốc trừ sâu có thể dẫn đến
giảm tổng thể với số lượng dịch hại. IRRI cũng tiến hành hai chiến dịch vào năm 1994 và 2003, khuyến
khích sử dụng thuốc trừ dịch hại hợp lý và quản lý dịch hại thông minh hơn ở Việt Nam .
Các nhà khoa
học đang cố gắng để phát triển kỹ thuật quản lý dịch hại trên cây lúa theo quy
trình canh tác bền vững.
Điều kiện thời tiết ngày càng phức tạp
Tình hình thiên
tai do nắng hạn, mưa giông, bão lục ngày càng phức tạp, góp phần làm bùng phát
dịch hại. Ví dụ mưa dầm làm tăng cao
các đối tượng như muỗi hành, sâu phao và sâu phao đục bẹ, bệnh do nấm và vi
khuẩn…
Mưa bão cũng
ảnh hưởng chất lượng lúa khi thu hoạch, ở những nơi không có máy sấy chất lượng
hạt lúa bị giảm trầm trọng khi gặp mưa, bão nhiều ngày liền.
Phân phối và
thương mại
Bởi vì tầm quan
trọng gạo trong dinh dưỡng đối với con người và an ninh lương thực ở Châu Á và Châu Phi, thị trường gạo có diển
biến phức tạp theo quy luật cung, cầu.
Số liệu gạo thương
mại thế giới chỉ khoảng 5-6% sản lượng gạo được sản xuất được giao dịch trong
thương mại quốc tế.
Trong điều kiện
hiện tại , thương mại gạo toàn cầu chỉ chiếm 1% trong giao dịch thương mại thế
giới. Nhiều quốc gia xem gạo là lương thực chiến lược, và Chính phủ tham gia
vào việc hoạch định chính sách và kiểm
soát tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
Các nước đang
phát triển đóng vai trò chính trong thương mại gạo thế giới, chiếm 83% xuất
khẩu và 85% của nhập khẩu. Trong khi có những nhà nhập khẩu nhiều gạo, xuất khẩu gạo
hạn chế. Chỉ năm quốc gia là Thái Lan , Việt Nam , Trung Quốc , Hoa Kỳ và Ấn Độ - chiếm khoảng ¾ lượng gạo xuất
khẩu thế giới trong năm 2002.
Sản xuất lúa gạo trên toàn thế giới đến năm
2010
Gạo quan trọng
đối với dinh dưỡng của nhiều dân tộc ở châu Á, cũng như ở Châu Mỹ Latinh, vùng
Caribê và Châu Phi. Gạo là trung tâm an ninh lương
thực của hơn một nửa dân số thế giới. Các nước đang phát triển chiếm 95% tổng sản lượng, với Trung
Quốc và Ấn Độ đã sản xuất gần một nửa sản lượng gạo thế
giới.
Sản lượng lúa
thế giới đã tăng lên đều đặn từ khoảng 200 triệu tấn lúa vào năm 1960 lên trên
696 triệu tấn trong năm 2010, đạt mức
kỷ lục mới trong lịch sử thế giới sản xuất.
Trong năm 2010 lúa được trồng ở hơn 100 quốc gia, với tổng diện tích thu
hoạch khoảng 158 triệu ha, sản lượng xấp xỉ 700 triệu tấn lúa, tức khoảng 470
triệu tấn gạo.
Khoảng 90% lượng gạo trên thế giới được
trồng ở Châu Á (Gần 640 triệu tấn). Tiểu vùng Sahara Châu Phi khoảng 19
triệu tấn và Châu Mỹ La Tinh khoảng
25 triệu tấn. Ở châu Á và tiểu sa
mạc Sahara Châu Phi , Hầu như lúa hầu hết được trồng trên những
trang trại nhỏ 0,5-3 ha.
Thương mại gạonthế giới
trong năm 2010 là 30,5 triệu tấn. Sự gia tăng này được hỗ trợ bởi một
nhu cầu nhập khẩu mạnh mẽ từ các nước châu Á, đặc biệt là Philippines .
Năng suất lúa trung bìnhtrên
thế giới là 4,3 tấn một hecta, trong năm 2010.
Năng suất lúa ở Úc cao nhất
thế giới, trong năm 2010, đạt trung bình toàn quốc khoảng 10,8 tấn / ha.
Yuan Longping, chuyên gia lúa
lai ở Trung Quốc đã nghiên cứu phát triển giống Siêu năng suất lúa lai đã đạt
19 tấn/ha/vụ ở ruộng trình diễn trong năm 2010.
Trong năm 2010,
ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất, thứ tự giảm dần là Thái Lan , Việt Nam và Ấn Độ . Cả ba nước chiếm gần 70% lượng
xuất khẩu gạo thế giới.
Các nước nhập
khẩu gạo với số lượng lớn gồm: Nigeria , Indonesia , Bangladesh , Ả-rập Xê-út , Iran , Iraq , Malaysia , Philippines , Brazil và một số nước Châu Phi và Vịnh Ba Tư . Mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ là hai nhà sản xuất gạo lớn
nhất trên thế giới, cả hai quốc gia tiêu thụ phần lớn gạo sản xuất trong nước, có
số lượng được giao dịch quốc tế rất ít.
Bảng sau đây
cho thấy diện tích, năng suất và sản lượng của lúa (thô) trên thế giới vào năm
1961, 2000 và 2010:
|
Nguồn: FAOSTAT | © FAO Statistics Division
2012 | 18 April 2012
Bảng sau đây
cho thấy diện tích, năng suất và sản phẩm của lúa (lúa) trên thế giới vào năm
1961, 2000 và 2010:
Sản lượng lúa theo quốc gia (tấn)
|
1961
(tấn)
|
2000
(tấn)
|
2007
(tấn)
|
2010
(tấn)
|
Hạng
2010
|
Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa
|
5.6000.000
|
189.814.060
|
~ 197.000.000
|
197.212.010
|
1
|
Ấn Độ
|
5.3494.500
|
127.465.000
|
~ 131.000.000
|
120.620.000
|
2
|
1.2084.000
|
51.898.000
|
~ 64.000.000
|
66.411.500
|
3
|
|
1.4426.200
|
37.627.500
|
~ 45.000.000
|
49.355.000
|
4
|
|
Việt
|
8.997.400
|
32.529.500
|
~ 39.000.000
|
39.988.900
|
5
|
Thái
Lan
|
10.150.000
|
25.843.900
|
~ 31.000.000
|
31.597.200
|
7
|
6.834.100
|
21.323.900
|
~ 31.000.000
|
33.204.500
|
6
|
|
Việt
|
3.910.100
|
12.389.400
|
~ 16.000.000
|
15.771.700
|
8
|
5.392.480
|
11.089.800
|
~ 13.000.000
|
11.308.900
|
9
|
|
Nhật
Bản
|
16.160.400
|
11.863.000
|
~ 11.000.000
|
10.600.000
|
11
|
1.690.000
|
7.203.900
|
~ 10.000.000
|
7.235.000
|
12
|
|
Hoa
Kỳ
|
2.458.000
|
8.657.820
|
~ 10.000.000
|
11.027.000
|
10
|
Nguồn: FAOSTAT | © FAO Statistics Division
2012 | 18 April 2012
Sản xuất cây lúa thế giới trong những
năm gần đây (2011-2012)
Cây lúa thế giới trong năm 2011
Lượng lúa gạo dự trữ trên
thế giới tăng lên mức cao nhất trong mười năm qua.
Theo ước tính lượng gạo sản
xuất trong năm 2011 đạt 482 triệu tấn (723 triệu tấn lúa), sản xuất lúa gạo thế
giới tăng 3,4% so với năm 2010 nhờ thời tiết tốt và giá cả hấp dẫn, khuyến
khích mở rộng diện tích trồng lúa tăng 2,4% với tổng diện tích trồng lúa165
triệu ha.
Năng suất tăng khoảng 1-2,9
tấn/ ha , đạt trung bình toàn thế giới 4.38 tấn/ha.
Hội đồng Ngũ cốc quốc tế (IGC) báo cáo sản
xuất lúa gạo thế giới trong niên vụ 2010-11 ở 450 triệu tấn, tăng 10 triệu so
với năm trước.
Top Ten các nước sản xuất lúa gạo hàng đầu trên thế giới năm
2011
Gạo là lương thực chủ yếu được ăn bởi một
dân số lớn của thế giới, đặc biệt là Châu Á tiêu thụ 92%
tổng lượng gạo được sản xuất. Trong vài thập kỷ qua, việc tiêu
thụ lúa gạo đã tăng lên nhanh chóng đã làm cho gạo trở thành một mặt hàng có
giá trị. Dưới đây là danh sách top ten các nước sản xuất gạo trên
thế giới trong năm 2011.
1. Trung
Quốc : Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa là
nhà sản xuất hàng đầu về gạo trên thế giới, sản lượng 182 triệu tấn. Chiếm khoảng 30%
tổng sản lượng gạo thế giới.
2. Ấn
Độ : Người khổng lồ Châu Á đứng thứ hai sau Trung Quốc với sản
lượng 137 triệu tấn; chiếm 22% của tổng sản lượng toàn cầu.
3. Indonesia : Các quốc gia Đông Nam Á đứng vị trí thứ ba với sản lượng
lúa 54,4 triệu tấn gạo, chiếm 8,6% tổng sản lượng của thế giới.
4. Bangladesh : Sản xuất
43,7 triệu tấn lúa, đạt khoảng 7% sản lượng thế giới.
5. Việt
Nam : Đạt sản lượng lịch sử khoảng 40 triệu tấn lúa, chiếm tỷ
lệ khoảng 5,7% tổng sản lượng của thế giới.
6. Thái
Lan : Nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, trong năm
2011 đã sản xuất 29,3 triệu tấn lúa.
7. Myanmar : Một đất nước còn bấp bênh trong sản xuất lúa gạo nhưng
trong năm 2011 nước này đã đạt khoảng 4% tổng sản lượng toàn cầu.
8. Philippines : Đất nước nằm trong cửa hứng bão Tây Thái Bình Dương
trong năm 2011 đã sản xuất 15,3 triệu
tấn lúa,
9. Brazil : Đất đai của Amazon , Brazil sản xuất 1,8%
tổng sản gạo lượng toàn cầu.
10. Nhật
Bản : Đã đóng
góp 10,7 triệu tấn lúa trong năm 2011.
Những dự báo tình hình sản xuất và dự
trữ lúa gạo thế giới trong năm 2012
-Kết quả là năm 2012 lượng lúa tồn kho thế giới dự kiến sẽ tăng 8%, hoặc 11
triệu tấn, cao nhất trong một thập kỷ qua với 148 triệu tấn lúa. Dự trữ lúa gạo
thế giới đạt 31,8% sản lượng trong năm 2012, so với 29,3% trong năm 2011.
-Sản xuất lúa gạo toàn cầu trong niên vụ 2011-12,
dự đoán là 1 kỷ lục 457,9 triệu tấn (gạo
xay xát), tăng 1% so niên
vụ 2010-11. Top 10 quốc gia sản xuất lúa gạo trên thế giới năm
2012 gồm (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Việt Nam, Thái Lan, Miến
Điện, Philippines, Brazil, và Nhật Bản), tất cả ngoại trừ Brazil và Nhật Bản dự
kiến sẽ thu hoạch cây trồng lớn
hơn năm 2011-12, với sản lượng vượt kỷ lục dự báo là Bangladesh, Miến Điện,
Campuchia, Lào, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam.
-Nhưng trong các nguồn khác
về sử dụng gạo thế giới trong niên vụ 2011/12 được dự báo tăng 2,4% với 472
triệu tấn (gạo xay xát), duy trì bởi một gia tăng trong tiêu thụ lúa gạo là
thực phẩm, gần 398 triệu tấn gạo.
Đối với thực phẩm, trung
bình mỗi đầu người tiêu thụ gạo được dự báo tiếp cận 57 kg vào năm 2012, tăng khoảng
1% so với năm 2011.
-Tổng lượng gạo thương mại
quốc tế trong năm 2012 sẽ tăng thêm 8% so với năm 2011.
-FAO dự báo tổng lượng gạo
thương mại trên thế giới tăng 8% so năm 2011 và đạt kỷ lụt 34 triệu tấn gạo
xay.
-Trong năm 2012 dự báo Bangladesh và Indonesia giảm nhập khẩu số lượng
lớn gạo từ nước ngoài.
-Sản lượng thu hoạch lúa ở
Trung Quốc bùng nổ trong năm 2012 do họ áp dụng rộng rải các giống lúa lai cao
sản và đưa cây lúa lai Siêu năng xuất vao sản xuất đại trà.
- Lượng gạo tiêu thụ bình
quân đầu người trên thế giới trong năm 2012 tăng thêm và vượt con số kỷ lục 57
kg/người/năm.
Tiềm năng và tương lai của cây lúa thế
giới
Phát triển giống lúa mới của Châu Phi
(NERICA)
Các nhà khoa
học thế giới và Châu Phi đã thành công trong việc lai tạo ra giống lúa mới của
Châu Phi từ loài lúa Châu Á (Oryza sativa) và loài lúa Châu Phi (Oryza
glaberrima) thích nghi trong điều kiện Châu Phi và năng suất tăng khoảng 50% so
với các giống lúa truyền thống, thời gian rút ngắn 30-50 ngày so giống địa
phương, cho phép giống lúa mới này lan tỏa mạnh ở Châu Phi. Tuy nhiên đây là
các giống lúa lai chưa tiếp cận được đông đảo nông dân Châu Phi vốn quen trồng
lúa quảng canh lệ thuộc nước trời.
Tuy nhiên giống
lúa mới của Châu Phi “New Rices for Africa " (NERICA) đã
xuất hiện trong The
New York Times (Ngày
10/10/2007) và trong International
Herald Tribune (09/2007),
đã báo động cuộc cách mạng mới trong sản xuất cây lúa ở Châu Phi đã bắt đầu.
Giống lúa NERICA được nông dân Châu Phi cho
là “cây trồng phép lạ” và đang tiếp cận ngày càng phổ biến của giống lúa mới
này. Đây là hy vọng cứu Châu Phi ra khỏi nạn đói trầm kha và giúp bảo đảm an
ninh lương thực ở Châu Phi trong thời gian tới.
Gạo hạt vàng (Golden rice)
Hạt gạo thường có rất ít vitamin A, do đó, những người ăn cơm là
chính có nguy cơ thiếu hụt vitamin A . Các nhà nghiên cứu
Đức và Thụy Sĩ đã tạo ra giống lúa biến đổi gen
dể tạo ra giống lúa sản xuất ra beta-carotene, tiền chất của vitamin A. Beta-carotene biến hạt
từ màu trắng thành hạt gạo màu "vàng" và giá trị quí giá của nó, vì
thế có tên "Goldeen rice".
Beta-carotene được chuyển thành vitamin A ở con người khi tiêu thụ gạo. Mặc dù một số giống
lúa có sản xuất beta-carotene trong thân, lá nhưng không được chuyển vị về hạt
gạo như ở giống Golden rice tự sản xuất ra beta-carotene ngay trong hạt lúa.
Lại gạo này đang được các quỷ nhân đạo giúp phát triển, vừa cải thiện năng
suất lúa vừ cung cấp chất vitamin A đang bị thiếu hụt trong bộ phấn dân số thế
giới ở những nước chậm phát triển và đang phát triển.
C4 RICE: giống lúa mới của thế giới trong tương
lai
Với mục tiêu về tiềm năng
tăng gấp đôi sản lượng gạo quốc tế, cây lúa chuyển đổi gen C4 –Rice được thực
hiện bởi các nhà khoa học IRRI đã triển khai nghiên cứu vài năm qua.
Cuối cùng, đội nghiên cứu hy
vọng sẽ tìm một cách để thay thế cơ chế quang hợp ở cây lúa thông thường (cơ
chế quang hợp kiểu C3) với một cơ chế quang hợp (C4) hiệu quả hơn trong một nỗ
lực để đáp ứng nhu cầu trên toàn thế giới cho loại ngũ cốc chủ yếu này.
Consortium Rice được dẫn
đầu bởi IRRI có trụ sở tại Philippines
và được hỗ trợ bởi Bill & Melinda Gates Foundation.
Mục tiêu của dự án phát
triển cây lúa C4 không chỉ để tăng năng suất, nhưng để cải thiện hiệu quả sử
dụng phân bón và nước tưới cho cây lúa nhằm để mở rộng thêm diện tích và sản
lượng cây lúa thế giới trong tương lai.
Hiện nay giống lúa C4 đang
được nghiên cứu với nhiều triển vọng đạt tới mục đích. Khi cây lúa C4 ra đời
chắn hẳn người nông dân trồng lúa sẽ choáng ngộp khi nhìn những ruộng lúa phổ
biến với năng suất 15-20 tấn/ha/vụ.
Phát triển giống lúa lai và Siêu lúa lai
Mục đích của công nghệ lúa lai năng suất cao
(HYVs) để tăng tiềm năng năng suất lúa vượt trội hơn các giống lúa truyền thống
bằng cách khai thác hiện tượng ưu thế lai F1. Công nghệ này đã
được phát triển thành công và được chấp nhận rộng rãi bởi các nông dân ở Trung
Quốc trong 25 năm qua.
Hiện nay, khoảng 15 triệu ha (Mha) trên tổng
số 30 Mha diện tích lúa ở Trung Quốc được trồng bằng lúa lai. Trung Quốc đã sản
xuất 103,5 triệu tấn (Mt) (17% của sản lượng lúa thế giới) – tăng thêm 22,5 triệu
tấn lúa mỗi năm do trồng lúa lai.
Trong năm 2000 có khoảng 6 triệu ha lúa lai
được trồng ngoài Trung Quốc. Công nghệ lúa lai Trung Quốc nhanh chó dược triển
khai ở Việt Nam, Ấn Độ, Châu Á và Châu Phi ôn đới, Châu Âu và Châu Mỹ. Lúa lai không
chỉ góp phần vào an ninh lương thực Trung Quốc mà còn đóng vai
trò trong việc bảo vệ an ninh lương thực toàn cầu.
Bên cạnh phát triển lúa lai, Trung Quốc còn
theo đuổi chương trình cây Siêu lúa lai. Năng suất thực nghiệm cây Siêu lúa lai
ở Trung Quốc được ghi nhận vào năm 2011 với năng suất khô 18.000 kg/ha.
Giống Siêu lúa lai của Trung Quốc mang mã số
7954 được phát triển bởi các Học viện khoa học nông nghiệp Trung Quốc Chiết Giang và Vân Nam.
Tài liệu tham khảo
4-World Rice Statistics: for the latest figures about
global rice production
5-Rice Knowledge Bank: for practical
information on growing rice for farmers and extension staff
11-From Wikipedia, the free encyclopedia -http://en.wikipedia.org/wiki/Rice