Quá trình phát triển giống lúa cải tiến ở Miền Nam


Quá trình phát triển giống lúa cải tiến ở Miền Nam

a- Nguồn gốc ra đời của giống lúa cải tiến

Giống lúa cải tiến (Improment rice-IR) là thuật ngữ để chỉ các giống được lai tạo theo phương pháp thủ công truyền thống, sau đó dực chọn ra dòng thuần ổn định để làm giống. Sau này để phân biệt với các giống lúa ưu thế lai F1, nên giống lúa cải tiến còn được gọi là lúa thuần (cần phân biệt với các giống lúa thuần địa phương hay lúa mùa).
Từ giữa những năm 1960s về trước toàn bộ vùng nhiệt đới Châu Á được trồng bằng những giống lúa thuần địa phương hay lúa mùa thuộc loài lúa Châu Á nhiệt đới O. Sativa var. indica.
Các giống lúa mùa có nhiều nhược điểm như:
-Có thời gian sinh trưởng dài (5-8 tháng), có tính cảm quang mạnh chỉ trồng được trong những tháng phù hợp trong năm và mỗi năm chỉ sản xuất được một vụ.
-Có thân cao (1,2-2 m), kiểu lá rũ, hiệu quả quang hợp kém, khi chín dể đổ ngã và cho năng suất thấp.
-Phản ứng với phân bón hóa học kém, không thích nghi với điều kiện thâm canh tăng năng suất và trồng nhiều vụ trong năm.
Trước tình trạng dân số thế giới tăng nhanh nhưng năng suất lúa mùa chỉ đạt ở đỉnh trần ở khoảng 2-2,5 tấn /ha, các  nhà khoa học trồng lúa thế giới tìm cách lai tạo ra các giống lúa cải tiến (Improment rice) nhằm để tăng vụ và tăng năng cây lúa để bảo đảm an ninh lương thực khi dân số Châu Á ngày càng tăng.
Đến năm 1950, các nhà khoa học về cây lúa đã có ý tưởng và đầu tư vào nghiên cứu để lai tạo ra một giống lúa lai giữa loài indica cao cây với loài japonica thấp cây nhằm tạo ra những giống lúa có năng suất cao hơn, lá thẳng và thấp cây hơn để cải thiện năng suất lúa ở vùng nhiệt đới.
Tuy nhiên một rào cản lớn là giữa hai loài không thể cùng sống chung trong môi trường nhiệt đới hay ôn đới để có những pha sinh sản trùng nhau để chọn ra cây bố và mẹ nhằm thực hiện lai tạo theo kiểu cấy phấn nhân tạo theo phương pháp truyền thống.
Các nhà nông học Trung Quốc là những người đầu tiên làm thay đổi kiến trúc di truyền của cây lúa thông thường. Vào năm1955, Trung Quốc lai tạo thành công một giống lúa bán lùn nhờ vào mẫu lúa O. Sativa indica ở Đài Loan mang gen bán lùn (sd-1) lai với một giống lúa thuần cao cây.Tuy nhiên năng suất gia tăng không đáng kể.
Viện lúa Quốc tế IRRI được thành lập năm 1959 ở Los Banos, Philippines và chính thức hoạt động từ năm 1960. Sau khi thành lập các nhà khoa học IRRI tập trung vào nghiên cứu lai tạo các giống lúa cải tiến và sản phẩm thành công để mở màng cuộc cách mạng xanh trên cây lúa ở Châu Á đó là sự ra đời của giống lúa IR 8 vào năm 1966.
Giống lúa IR8 là sản phẩm của tổ hợp lai giữa hai giống lúa Dee-Geo-woo-gen (là giống japonica của Trung Quốc)  và Peta (giống indica của Indonesia) đã được thực hiện tại IRRI vào năm 1962. Năm 1966, một trong những dòng của tổ hợp này đã trở thành một cây trồng mới mang tính lịch sử đó là giống IR 8 (Improment rice 8).
Giống lúa IR8 được xem là giống lúa cải tiến thành công đầu tiên trên thế giới.
IR8 yêu cầu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nhưng sản xuất đem lại sản lượng cao hơn đáng kể so với các giống mùa truyền thống. Sau khi Viện lúa Quốc tế IRRI phóng thích giống lúa IR8, cây lúa Châu Á bước sang giai đoạn nhảy vọt mới, mở màng cuộc “Cách mạng xanh” ở Châu Á.

Trụ sở Viện lúa quốc tế IRRI ở Philippines
Là nơi tọa lạc của IRRI, Philippines là nước nhanh chóng nhất tiếp cận các giống lúa cải tiến. Sản xuất lúa gạo hàng năm tại Philippines đã tăng từ 3,7 đến 7,7 triệu tấn trong hai thập kỷ liên tục kể từ năm 1970, điều mà trước đó hàng trăm năm không có được.

b- Quá trình phát triển giống lúa cải tiến ở Miền Nam trước năm 1975

Từ rất sớm ở Miền Nam Việt Nam (dưới chế độ Sài Gòn) khoảng tháng 5-1966, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa (nay trở thành cơ sở của Viện Cây Ăn Quả Miền Nam) ở Long Định, Tiền Giang thuộc Bộ Canh Nông Miền Nam đã nhận được 10 kg lúa giống IR8 để trồng thử nghiệm đầu tiên trên 2.000 m2 vào mùa mưa. Trong mùa ấy, năng suất của lúa IR8 thu hoạch được 4 tấn/ha so với năng suất bình quân của lúa cổ truyền 2 tấn/ha.
Đồng thời, trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn nhận được 1kg giống IR8 từ IRRI để trồng trong một thí nghiệm về ảnh hưởng của quang cảm (photoperiodism) cùng chung với một số giống lúa địa phương tuyển chọn của Miền Nam. Kết quả thí nghiệm được báo cáo vào mùa hè 1967 qua một Luận trình cuối khóa (Trần Văn Đạt, 1967). Trong thí nghiệm này, năng suất tiềm năng của giống lúa IR8 được theo dõi và đánh giá cao trong khi so sánh với các giống lúa được tuyển chọn khác.
Nhờ kết quả khích lệ trên và nhu cầu lúa gạo cấp bách thời bấy giờ, Bộ Canh Nông Sài Gòn đặc biệt chú ý đến giống lúa IR8 và quyết định phát triển canh tác đại trà trong khi vẫn còn trồng thí nghiệm theo dõi tại Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa ở Long định, tại các Trại thực nghiệm lúa ở Miền Trung và Miền Nam, Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp và trường Đại học Cần Thơ, qua sự hợp tác với IRRI ở Philippines. Có thể nói Việt Nam là một trong những nước tiên phong trong công cuộc Cách Mạng Xanh ở Châu Á.
Vào giữa năm 1967, trong chương trình hợp tác với Cơ quan Phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), độ 6 tấn lúa giống IR8 có năng suất cao và ngắn ngày, được du nhập khá khó khăn vào Việt Nam (vì thỏa hiệp giữa IRRI và Chính phủ Philippines không cho phép IRRI xuất khẩu một số lượng lúa lớn dù là hạt giống) để tái canh trên 300 ha ruộng vào mùa nắng (vụ Đông xuân) tại Võ Đắt, tỉnh Bình Tuy (cũ), sau khi vùng này bị lũ lụt và vụ lúa bị thiệt hại nặng nề. Vì lúa IR8 được trồng hơi muộn lại thiếu nước, chỉ có khoảng 40 ha lúa được thu hoạch với năng suất bình quân 2 t/ha.
Tất cả số lượng lúa sản xuất được tại Vỏ Đắt, độ 80 tấn, được Bộ Canh Nông (Sài Gòn) thu mua làm giống và gởi trồng nhân giống tại 33 tỉnh của Miền Nam vào mùa mưa 1968. Sau đó, lúa IR8 được nông dân tự nhân giống hoặc được Sở Lúa Gạo thu mua qua quỹ luân chuyển để phân phối cho các vùng khác trồng vào mùa nắng (vụ Đông xuân) của năm 1969.
Cho nên, trong vụ mùa 1968-1969, 23.373 ha lúa IR8 đã được thu hoạch với năng suất bình quân 4tấn/ha và giống lúa IR8 được Bộ Nông nghiệp (chế độ Sài Gòn) đặt tên là Thần Nông 8 (TN8) .
Mùa lúa 1968-1969 là thời gian bắt đầu phổ biến mạnh mẽ của chương trình “Tăng gia sản xuất lúa Thần Nông” được Sở Lúa Gạo thuộc Bộ Canh Nông thực hiện đại qui mô qua mô hình “mini kit” của Philippines: Mỗi nông dân trồng lúa TN8 (lần đầu tiên) được cung cấp một gói nhỏ (mini kit) gồm lúa giống TN8, phân hóa học và thuốc sát trùng diazinon.
Việt Nam nhập giống IR8 từ IRRI vào cả hai miền vào cuối những năm 1960 và từ đó năng suất gia tăng đáng kể. Ở Miền Bắc giống lúa IR8 được Bộ Nông nghiệp đặt tên là giống Nông nghiệp 8 (NN8). Cho đến nay có trên 90% diện tích trồng lúa của Việt Nam trực tiếp hoặc gián tiếp dùng các nguồn gen giống lúa cải tiến của IRRI. Nhờ trồng giống lúa cải tiến mà sản lượng lúa của Việt Nam hiện nay tăng gấp đôi so với thời kỳ chưa trồng lúa cải tiến.
Ở Miền Nam, sau giống IR8, kế đến là các giống lúa IR5, rồi IR20, IR22 được du nhập thử nghiệm và phổ biến qua chương trình hợp tác với IRRI. Diện tích trồng lúa Thần Nông tiếp tục bành trướng mau lẹ.
Theo báo cáo của Viện Thống Kê Quốc Gia (chế độ Sài Gòn), vào vụ mùa 1969/70, lúa cải tiến được trồng trên 204.000 ha hoặc độ 30% diện tích tưới tiêu, 452.100 ha vào 1970/71, 674.740 ha vào 1971/72, và 835.000 ha vào 1972/73. Đến vụ mùa 1973-74, diện tích các giống lúa cải tiến hay cải thiện (IR8, IR5, IR20, IR22, TN 73-1 và TN 73-2) chiếm độ 32% hay 890.000 ha với năng suất bình quân 4 t/ha và sản lượng của lúa Thần Nông chiếm 53% tổng sản lượng lúa Miền Nam. Vào vụ mùa 1974/75, tổng sản lượng lúa gạo miền Nam uớc độ trên 7 triệu tấn lúa. (Trần Văn Đạt).

c- Quá trình phát triển giống lúa cải tiến ở ĐBSCL từ 30-4-1975 đến nay

+Quá trình phát triển
Sau năm 1975, một số Viện nghiên cứu và trường Đại học cũng tham gia nghiên cứu và phát triển các giống lúa mới cho ĐBSCL như Trường Đại Học Cần Thơ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Miền Nam hợp tác với Viện nghiên cứu lúa Quốc Tế (IRRI), một số tập đoàn giống lúa mới từ Philippines được khảo sát và đánh giá dựa trên tính chống chịu sâu bệnh, năng suất của các giống lúa cải tiến với các điều kiện thổ nhưỡng của ĐBSCL.
Năm 1977, Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL đã được thành lập tại huyện Ô Môn. Tỉnh Hậu Giang (Cần Thơ) (tên gọi ban đầu là Trung Tâm Kỹ Thuật Nông Nghiệp ĐBSCL). Hiện nay, các giống lúa mới do Viện nghiên cứu lúa, trường Đại học đóng góp cho sự gia tăng sản lượng đáng kễ, chiếm 53% sản lượng cả nước, trong số đó hơn 80% giống lúa trồng hiện nay ở ĐBSCL từ Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL (Ô Môn).
Đồng bằng sông Cửu Long, từng bước đã phát triển phương thức canh tác thâm canh, tăng vụ sản xuất lúa trong năm (3 vụ/năm; 2 năm 7 vụ). Do vậy công việc tạo giống phải tập trung về năng suất cao, ngắn ngày, và ngon cơm. Ngoài ra phải chống chịu được với một số sâu bệnh hại chính cho cây lúa như bệnh cháy bìa lá, bệnh đạo ôn, rầy nâu và virus, chống chịu với một số điều kiện của môi trường khó khăn như: hạn, măn, phèn và gần đây là giống có chứa hàm lượng vitamine A và Fe.
Danh sách các giống lúa cải tiến được Viện lúa ĐBSCL và các Viện, Trường Đại học khác và của IRRI được phóng thích ở ĐBSCL từ năm 1980 đến nay được hàng trăm giống năng suất cao và ổn định phục vụ cho sản xuất lúa ở các tỉnh phía Nam.
Từ năm 2006 đến nay, rất nhiều giống đã được phóng thích, phẩm chất đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.Nhìn chung, bộ giống lúa chủ lực (những giống có diện tích sản xuất trên 50.000 ha/ năm) ở Nam Bộ năm 2010 vẫn ổn định và tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong những năm tới.
10 giống lúa đứng đầu về diện tích sản xuất ở Nam Bộ gồm: OM 2517, VNĐ95-20, Jasmine85, OM 576, OM 2514, OM 2717, OM 4218, IR50404, OM CS2000 và ML 48.
Ngoài ra trong năm 2010, chương trình chọn tạo phát triển giống lúa mới của các cơ quan nghiên cứu được đẩy mạnh; công tác khảo nghiệm và sản xuất thử các giống lúa được thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ ở các địa phương; trên cơ sở đó Bộ Nông nghiệp và PTNT đã công nhận được nhiều giống lúa mới cho sản xuất rộng Nam Bộ như OM 4218, OM 4088, OM 5472, OM 6162, OM 6161, PHB71 (6 giống công nhận chính thức), và các giống OM 6377, OM 5981, OM CS2009, OM 6071, OM 5629, OM 6600, OM 6877, OM 5954, OM 4101, OM 6072, OM 5451, OM 5464, OM 8923, ML214, Nàng Hoa 9 (15 giống công nhận cho sản xuất thử); đây là cơ sở quan trọng để xây dựng cơ cấu giống lúa cân bằng và chủ động trong vùng.
Năng suất và sản lượng lúa ở ĐBSCL đã gia tăng theo từng năm từ năm 2000 sản lượng chỉ hơn 16 triệu tấn cho đến năm 2010 là 21,5 triêu tấn. Trong khi đó năng suất bình quân tăng hơn 1,0 tấn.
Theo số liệu điều tra năm 2007, của Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Quốc gia vùng Nam bộ. Tổng diện tích giống lúa mùa địa phương sản xuất trong ba vụ khá thấp, chỉ đạt 201.873 ha (chiếm 5,68%). Vụ Mùa có tỷ lệ giống địa phương cao nhất (119.249 ha/ 22,74%); Vụ Hè Thu có diện tích và tỷ lệ giống địa phương thấp nhất (27.729 ha/ 1,85%); diện tích lúa địa phương trong vụ Đông Xuân là 54.895 ha (3.65%).
Giống lúa cải tiến chiếm vị trí chủ đạo trong cả ba vụ lúa ở ĐBSCL với tổng diện tích là 3.113.533 ha (87,57%); trong đó vụ Hè Thu có diện tích và tỷ lệ giống cải tiến cao nhất là 1.394.093 ha (91.28%), tiếp theo là vụ Đông xuân với 1.341.761 ha (89.22%), và vụ Mùa là 377.679 ha (72.02%). So với kết quả điều tra giai đoạn 2003/ 2004 thì tỷ lệ giống địa phương và giống cải tiến ở ĐBSCL không có sự thay đổi đáng kể.
Trong quá trình điều tra, diện tích các giống lúa không xác định được tên gọi (giống khác) được tổng hợp là 107.211 ha (7.13%) trong vụ Đông xuân, 105.438 ha (6.90%) trong vụ Hè Thu và 27.515 ha (5,25%) trong vụ Mùa. Phần lớn diện tích “giống khác” thuộc nhóm giống cải tiến, nên tổng diện tích giống cải tiến thực tế đạt khoảng 3.330.000 ha (93,65%) và giống lúa địa phương chỉ chiếm khoảng 6,35%.
Phân nhóm giống lúa ở ĐBSCL
+Phân nhóm diện tích giống lúa theo nguồn gốc
-Giống cải tiến lai tạo trong nước
Giống lúa cải tiến lai tạo trong nước chiếm vị trí chủ yếu trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Tổng diện tích giống lai tạo trong nước áp dụng trong 3 vụ năm 2007 là 2.136.066 ha (60,98%). Tuy nhiên phần lớn diện tích “giống khác” là giống lai tạo trong nước, nên diện tích và tỷ lệ giống lai tạo trong nước thực tế cao hơn. Diện tích và tỷ lệ giống cải tiến lai tạo trong nước ở vụ Đông xuân là 906.408 ha (60.27%), vụ Hè Thu là 979.327 ha (64.12%) và vụ Mùa là 250.331ha (47,73%).
-Giống lúa cải tiến nhập nội
Giống nhập nội chủ yếu có nguồn gốc từ IRRI và một số nước khác như Thái Lan, Đài Loan... Diện tích và tỷ lệ giống nhập nội ở ĐBSCL có xu hướng tăng nhẹ so với các đợt điều tra trước đây, chủ yếu vì diện tích các giống IR 50404, Jasmine 85, VD 20 tăng đáng kể trong năm 2007 và cả những tiếp theo. Giống lúa nhập nội giữ vị trí quan trọng trong sản xuất với tổng diện tích cả năm là 977.570 ha (27.49%); trong đó vụ Đông Xuân là 435.353 ha (28.95%), vụ Hè Thu là 414.739 ha (27.16%) và vụ Mùa là 127.478 ha (224,31%).
+Phân nhóm giống lúa theo chất lượng
-Giống nếp và đặc sản
Nhóm giống lúa nếp và đặc sản (lúa thơm và lúa địa phương) ngày càng được người sản xuất quan tâm và diện tích sản xuất có su hướng tăng do yêu cầu cao của thị trường. Trong năm 2007, tổng diện tích lúa nếp và đặc sản đạt 643.177 ha, chiếm 18,09%. Vụ Đông Xuân có diện tích lúa nếp và đặc sản cao nhất, đạt 266.002 ha (17,69%); vụ Hè Thu đạt 200.678 ha (13.14%), và vụ Mùa là 176.496 ha (33,65%). Các giống nếp và đặc sản và mùa địa phương được sản xuất chủ yếu là Jasmine 85, VD 20, nếp 46-25, nếp 84, Nếp Bè, Tài Nguyên, Nàng Thơm...
-Giống cải tiến chất lượng cao
Diện tích giống lúa cải tiến chất lượng cao (hạt thon dài, bạc bụng thấp) chiếm vị trí chủ lực trong sản xuất lúa ở ĐBSCL, đạt 1.778.513 ha (50,30%), điều này phản ánh tiến bộ và thành quả của công tác chọn tạo giống lúa hơn thập kỷ qua ở phía Nam. Vụ Đông Xuân có diện tích và tỷ lệ giống lúa cải tiến chất lượng cao cao nhất là 796.787 ha (52.98%), vụ Hè Thu là 794.543 ha (52.03%); vụ Mùa đạt 197.183 ha (37,60%).
-Giống lúa cải tiến chất lượng trung bình – thấp
Giống lúa cải tiến chất lượng trung bình – thấp (hạt gạo hơi ngắn hoặc tỷ lệ bạc bụng cao) có tổng diện tích là 883.715 ha, chiếm 24,85% diện tích lúa cả năm. Diện tích và tỷ lệ giống lúa nhóm này là 333,866 ha (22,20%) trong vụ Đông xuân; 426.600 ha (27.93%) trong vụ Hè Thu và 123.249 ha (23,50%) trong vụ Mùa.
Hai giống lúa có diện tích cao nhất trong nhóm này là IR 50404 và OM 576. Nhìn chung tỷ lệ nhóm lúa này còn khá cao và có thể còn tăng hơn nữa trong năm tới vì diện tích IR 50404 ngày càng tăng và OM 576 được đánh giá ổn định. (Nguyễn Quốc Lý và ctv).

Một số hệ quả của quá trình phát triển giống lúa cải tiến ở ĐBSCL

            +Sự biến động về diện tích lúa
Sản xuất lúa ở ĐBSCL trong những năm qua đã có sự thay đổi diện tích, trong giai đoạn 2000-2010, diện tích lúa ĐBSCL thu hẹp 6.000 ha. Riêng trong giai đoạn 2000-2005 diện tích gieo trồng lúa giảm 119.500 ha, sau đó phục hồi lại trong giai đoạn 2005-2010 tăng 113.500 ha. Sự tăng giảm diện tích theo các giai đoạn chủ yếu do:
(i) Giá cả lúa bấp bênh diện tích tăng, giảm cục bộ trong từng vụ;
(ii) Sự không ổn định diện tích lúa thu đông;
(iii) Sự tăng giảm diện tích của vụ lúa mùa (trong đó có vụ lúa trên nền đất nuôi tôm sú).
+Tăng năng suất, sản lượng và thặng dư lương thực dành cho xuất khẩu
Năng suất lúa đã và đang được cải thiện một cách đáng kể, năm 2000 năng suất bình quân 4,23 tấn/ha đến năm 2010 năng suất bình quân đạt 5,43 tấn/ha (tăng gần 1,2 tấn/ha) sự tăng năng suất cơ bản là việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp vào sản xuất một cách rộng rãi hơn trong đó quan trọng là sử dụng giống mới, biện pháp ba giảm ba tăng, thu hoạch cơ giới và rút ngắn được khoảng chênh lệch năng suất giữa các hộ trồng lúa.
Sản lượng lúa cũng gia tăng mặc dù diện tích trồng lúa có giảm, năm 2000 sản lượng đạt 16,702 triệu tấn nhưng đến năm 2010 sản lượng đã đạt 21,56 triệu tấn (tăng 4,85 triệu tấn) sản lượng tăng vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vừa đảm bảo tăng sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm.
Gạo xuất khẩu của Việt nam chủ yếu được sản xuất từ ĐBSCL. Năm 1989, Việt nam bắt đầu thời kỳ xuất khẩu gạo với 1,4 triệu tấn. Thời kỳ 1996 - 2000, xuất khẩu 3,67 triệu tấn gạo/năm, kim ngạch 900 triệu USD/năm. Thời kỳ 2001-2007, bình quân xuất khẩu 4,18 triệu tấn/năm, kim ngạch 1,03 tỷ USD/năm, tăng 13,8% về lượng và 14,4% về giá trị so với thời kỳ trước.
Xuất khẩu gạo năm 2009 gần 6, 1 triệu tấn, 2010 6,8 triệu tấn, năm 2011 xuất khẩu gạo đạt kỹ lục 7 triệu tấn.
Thị trường gạo xuất khẩu gạo chủ lực của Việt Nam (2008) chủ yếu là: Châu Á chiếm 52,70%, Châu Phi 27,21%, Châu Mỹ 11,70% (Cu Ba 11,34%). Xuất khẩu hiện nay có chiều hướng mở rộng thị trường sang khu vực Châu Phi.
Xuất khẩu gạo năm 2000 đạt 3,5 triệu tấn, đến năm 2010 sản lượng gạo xuất khẩu đạt 6,754 triệu tấn. Giá trị xuất khẩu từ 668 triệu USD năm 2000 đến 2,912 tỉ USD năm 2010.
+Thành tựu của việc sử dụng giống lúa cải tiến cao sản ở ĐBSCL
Những thành tựu nỗi bật của việc nhanh chóng ứng dụng giống lúa mới ở Việt Nam nói chung và ở ĐBSCL nói riêng là do:
 i) Việc chọn lọc và lai tạo được bộ giống lúa ngắn ngày, có năng suất và chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh khá, thích ứng rộng với các vùng sinh thái khác nhau, tạo điều kiện đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ và chuyển dịch cơ cấu sản xuất có hiệu quả.
ii) Chọn lọc và lai tạo được một số giống cây trồng tốt phục vụ xuất khẩu, điển hình là các giống lúa như Jasmine 85, OM CS 2000, VND 95-20, OM 4900, OM 4218, OM 2517, ST5…. Được sử dụng rộng rãi trong sản xuất lúa xuất khẩu ở ĐBSCL, đã nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, giảm sự chênh lệch giá xuất khẩu gạo giữa Viêt Nam và Thái Lan (Cục Trồng trọt, 2007).
iii) Bộ giống lúa ngắn ngày đã tạo thuận lợi cho việc thay đổi mùa vụ, tăng vụ, mở rộng diện tích lúa 3 vụ trong năm tại nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, góp phần lớn vào việc gia tăng sản lượng lúa trong toàn vùng.
iv) Chất lượng giống lúa đã được cải thiện nhờ định hướng nghiên cứu và chọn tạo các giống lúa hạt dài, trong, không bạc bụng, có độ mềm dẽo và thơm nhẹ phục vụ cho xuất khẩu gạo chất lượng cao. Các giống lúa này đã thay thế dần các giống lúa cho năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp.
v) Hiện nay, để thích ứng với biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất lúa trong toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long các cơ quan nghiên cứu đã và đang tích cực chọn tạo các giống lúa có chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh nhưng cũng phải có khả năng thích ứng với các điều kiện khó khăn như phèn, mặn, khô hạn hay ngập úng. Hướng nghiên cứu này giúp việc canh tác lúa trong những vùng có điều kiện khó khăn được ổn định.
Việc sử dụng giống lúa cao sản ngày nay đã giúp Việt Nam tiến rất xa trong canh tác thâm canh so với các nước trong khu vực. Rất nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng giúp nông dân nâng cao dần năng suất qua các phương thưc sản xuất mới.
+Những vấn đề cần được quan tâm qua quá trình phát triển giống lúa cải tiến
Bên cạnh đó một số vấn đề về canh tác thâm canh giống lúa cải tiến đối với môi trường cũng cần được quan tâm:
+Tính đa dạng sinh học của giống lúa địa phương bị mất đi
Từ những thập niên năm 1930 đến 1960, ở ĐBSCL có vài ngàn giống lúa mùa thích nghi từ lâu đời với các vùng sinh thái khác nhau, các giống lúa mùa thường cao cây, đỗ ngã, năng suất rất thấp từ 1,7 đến 2,5 tấn/ha, có tính chống chịu nhiều loại sâu bệnh, nhưng đối với rầy nâu thì rất nhiễm. Sau khi phát triển các giống lúa mới năng suất cao thì các giống lúa mùa chỉ còn được sử dụng làm nguồn gen trong công tác lai tạo giống lúa mới. Việt nam đã họp tác với Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI để lưu giữ nguồn gen quí nầy, ngoài ra một số giống lúa vẫn còn được lưu giữ ở các Viện nghiên cứu nông nghiệp và các Trường Đại học.
+Thu hẹp và mất dần các vùng sinh thái tự nhiên
Một số vùng sinh thái tự nhiên như Vùng Lúa nổi ở An Giang, Vùng Tứ giác Long Xuyên, Vùng lúa nước sâu, vùng lúa nước trời, vùng đất phèn Đồng Tháp…Do du nhập các giống lúa ngắn ngày thích nghi với điều kiện tưới tiêu nên phối hợp với hệ thống thủy lợi và đê bao ngăn lũ nên dần dần chúng ta chỉ còn rất ít diện tích của các vùng sinh thái trên, cây lúa nổi hiện còn rất khiêm tốn ở vùng Thoại sơn, vùng lúa tưới hiện nay chiếm hơn 60%, giúp cho thâm canh tăng vụ và tăng sản lượng đáp ứng cho nhu cầu về an ninh lương thực.
+Thay đổi về di truyền học tính kháng, sự tương tác ký sinh và ký chủ
Di truyền học tính kháng hay sự tương tác giữa ký sinh và ký chủ có sự thay đổi rất lớn trong hơn 3 thập kỷ qua. Tính kháng của các giống lúa ngắn ngày đối với các loài sâu bệnh hại đều thay đổi. Đối với bệnh cháy lá (Pyricularia griesea), trước đây giống chống chịu bệnh có thể giử tính kháng ổn định từ 5 đến 10 năm như IR 42, IR 48. Từ những năm 2000 cho đến nay, giống mới phóng thích hầu như chỉ chống chịu đươc qua vài vụ. Tính chống chịu của giống đối với rầy nâu (Nilarparvata lugens) là rõ nhất. Do vậy các giải pháp cho phòng chống sâu và bệnh hại lúa hiện nay cần kết hợp nhiều biện pháp thân thiện hơn với môi trường trong đó tính kháng của giống ngày càng giữ vai trò thứ yếu so với những năm trước đây.
+Thay đổi về môi trường đất trồng lúa, ô nhiễm nguồn nước sạch, tài nguyên thủy sản
Ảnh hưởng của thuốc hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, phân bón vô cơ sử dụng hàng ngày trên đất lúa đã làm thay đổi rất nhiều về chất lượng đất, nước và quần thể sinh vật trong tự nhiên. Tất cả những vấn đề nêu trên vẫn chưa thể nào đánh giá hết được. Rất cần có những nghiên cứu trong tương lai.
                                                                                    Kỹ sư Hồ Đình Hải
                                                     Tài liệu tham khảo 
1. Cục Trồng trọt, 2007. Báo cáo hiện trạng ngành giống cây trồng Việt Nam.
3. Nguyễn Quốc Lý, 2007. Báo cáo Điều tra đánh giá cơ cấu, hệ thống sản xuất, chất lượng và công tác quản lý giống lúa ở các tỉnh ĐBSCL.
4. Phạm Văn Dư, 2010. Báo cáo 10 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 và Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 16/4/2002 của Bộ Chính trị (khoá IX) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL.
5-Phạm Văn Dư, Lê Thanh Tùng 2011. Thành tựu và giới hạn của việc áp dụng giống lúa cao sản ở ĐBSCL.